Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự được quy định thế nào? Khái niệm, nội dung, đặc điểm của nguyên tắc suy đoán vô tội?
Ngay từ thời La mã cổ đại người ta đã khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo, thuộc bên khẳng định chứ không thuộc bên phủ định. Những tư tưởng này chỉ được các tòa áp dụng trong tố tụng dân sự. Đây được coi là nguồn gốc của nguyên tắc suy đoán vô tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta.
Nguyên tắc suy đoán vô tội gồm có bốn nội dung chính:
Thứ nhất, Không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và chưa được xác định bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa. Tức là, một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ “người phạm tội” chi người đã thực hiện hành vi được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, hành vi của người đó đã cấu thành tội phạm. Thuật ngữ “người phạm tội” chỉ một chủ thể khách quan là một người thực hiện tội phạm chứ không tùy thuộc vào nhận định chủ quan của các cơ quan áp dụng pháp luật. Do vậy, thuật ngữ “người bị coi là có tôi” khác với “người phạm tội”.
Thứ hai, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. (Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Như vậy, đồng nghĩa với việc tại phiên tòa bị cáo có quyền im lặng tức là không có nghĩa vụ phải trả lời câu hỏi của hội đồng xét xử. Để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Thứ ba, bản cáo trạng của Viện kiểm sát và bản án kết tội của tòa phải dựa trên các chứng cứ chắc chắn về lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm, buộc tội phải dựa trên chứng cứ. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát và bản án kết tội của tòa phải dựa trên các chứng cứ khẳng định chắc chắn về lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm. Nếu cơ quan điều tra còn mơ hồ về chứng cứ thì không ra kết luận điều tra, nếu Viện kiểm sát còn băn khoăn thì không ra cáo trạng, nếu thấy chưa đủ chứng cứ thì tòa không thể kết tội.
Thứ tư, mọi nghi ngờ về lỗi của bị can, bị cáo nếu không thể loại trừ được theo thủ tục, trình tự do luật định và chưa có sự thống nhất trong việc giải thích, áp dụng các quy phạm pháp luật đều phải được giải quyết theo hướng có lợi cho họ. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo, đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ.
Ở Việt Nam, việc ghi nhận và áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ tạo được nhiều lợi thế cho quá trình tố tụng tiến bộ, phù hợp với cải cách tư pháp. Bởi vì nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo chữa của bị can, bị cáo và nguyên tắc tranh tụng.