Khi đầy đủ các điều kiện để được cấp sổ đỏ và sổ hồng, thì các chủ thể sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên trên thực tế, có những trường hợp, sổ đỏ và sổ hồng đã cấp vẫn bị thu hồi.
Mục lục bài viết
1. Những trường hợp sổ đỏ, sổ hồng đã cấp vẫn bị thu hồi:
Theo quy định của pháp luật hiện nay, có những trường hợp sổ đỏ và sổ hồng đã cấp vẫn bị thu hồi bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 106 của
Thứ nhất, sổ đỏ và sổ hồng đã cấp sẽ bị thu hồi khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi toàn bộ diện tích đất trên sổ đỏ và sổ hồng đó. Theo đó thì, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, hoặc thu hồi để phát triển kinh tế xã hội xuất phát từ lợi ích của quốc gia, lợi ích của toàn thể dân tộc và cộng đồng, thì người sử dụng đất sẽ có nghĩa vụ nộp lại sổ đỏ và sổ hồng đã cấp trước đó khi nhận tiền bồi thường và hỗ trợ theo quy định của pháp luật về đất đai. Tổ chức giải phóng mặt bằng sẽ có trách nhiệm thu hồi sổ đỏ và sổ hồng đã cấp, sau đó, chuyển sổ đỏ và sổ hồng đó cho văn phòng đăng ký đất đai để quản lý. Đối với trường hợp, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu hồi đất xuất phát từ hành vi vi phạm quy định của pháp luật về đất đai của người sử dụng đất, hoặc thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo quy định của pháp luật, hoặc trong trường hợp người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất cho nhà nước, quá trình sử dụng đất có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của con người, thì người sử dụng đất cần phải nộp lại sổ đỏ và sổ hồng đã cấp trước đó theo quy định của pháp luật khi tiến hành hoạt động bàn giao đất cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những trường hợp cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế, hoặc tổ chức được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động thu hồi sẽ có trách nhiệm thu sổ đỏ và sổ hồng đã cấp theo quy định của pháp luật, sau đó chuyển sổ đỏ và sổ hồng đó cho văn phòng đăng ký đất đai để quản lý.
Thứ hai, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thu hồi sổ đỏ và sổ hồng đã cấp trong trường hợp người sử dụng đất tiến hành thủ tục cấp đổi sổ đỏ và sổ hồng mới. Hay nói cách khác, trong trường hợp cấp đổi sổ đỏ và sổ hồng mới thì người sử dụng đất cần phải nộp lại sổ đỏ và sổ hồng đã cấp trước đây cùng với hồ sơ đề nghị xin cấp đổi cho văn phòng đăng ký đất đai. Văn phòng đăng ký đất đai rất tiến hành hoạt động quản lý sổ đỏ và sổ hồng đã nộp sau khi kết thúc thủ tục cấp đổi.
Thứ ba, thu hồi sổ đỏ và sổ hồng đã cấp trong trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới sổ đỏ hoặc sổ hồng.
Thứ tư, thu hồi sổ đỏ và sổ hồng đã cấp khi quá trình cấp vi phạm quy định của pháp luật, không thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về đất đai. Có thể nhìn nhận, sổ đỏ và sổ hồng đã cấp được xác định là không đúng quy định của pháp luật đất đai khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
– Sổ đỏ và sổ hồng đã cấp không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật, cấp không đúng diện tích trên thực tế, không đúng đối tượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật, không đủ điều kiện để được cấp nhưng vẫn cấp trên thực tế, cấp không đúng thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất không phù hợp với quy định của pháp luật;
– Trong trường hợp người được cấp sổ đỏ hoặc sổ hồng đã thực hiện thủ tục chuyển nhượng hoặc chuyển đổi, thực hiện thủ tục tặng cho hoặc thừa kế, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và đã được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật thì nhà nước sẽ không tiến hành thủ tục thu hồi sổ đỏ hoặc sổ hồng trên thực tế.
Như vậy, trên đây là những trường hợp sổ đỏ và sổ hồng đã được cấp nhưng vẫn bị thu hồi bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Trình tự, thủ tục thu hồi sổ đỏ, sổ hồng đã cấp:
Căn cứ theo quy định tại khoản 26 Điều 1 của Nghị định số 148/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, thủ tục thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (hay còn được gọi là sổ đỏ hoặc sổ hồng) sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 106 của Luật đất đai năm 2013, cụ thể như sau:
– Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án nhân dân giải quyết tranh chấp đất đai và đã có bản án hoặc quyết định có hiệu lực thi hành trên thực tế, trong đó có kết luận về việc tiến hành hoạt động thu hồi giấy chứng nhận đã cấp thì việc thu hồi giấy chứng nhận đó phải được thực hiện theo bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực của tòa án;
– Trong trường hợp cơ quan thanh tra có văn bản kết luận rằng giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, giấy chứng nhận đã cấp không phù hợp với quy định của pháp luật đất đai thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải tiến hành hoạt động xem xét giấy chứng nhận được cấp đó, nếu kết luận giấy chứng nhận được cấp không đúng thẩm quyền thì cần phải ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp, trường hợp xem xét giấy chứng nhận đã cấp là đúng với quy định của pháp luật về đất đai thì cần phải thông báo lại cho cơ quan thanh tra;
– Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 105 của Luật đất đai năm 2013, sau đó phát hiện giấy chứng nhận đã cấp không phù hợp với quy định của pháp luật đất đai, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải tiến hành hoạt động kiểm tra lại giấy chứng nhận, sau đó thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do, và ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định;
– Trong trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phát hiện ra giấy chứng nhận đã cấp bởi cơ quan nhà nước không đúng với quy định của pháp luật thì cần phải gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại giấy chứng nhận đã cấp. Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sẽ có trách nhiệm kiểm tra và xem xét giấy chứng nhận đã cấp, ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận nếu xét thấy giấy đó được cấp không đúng với quy định của pháp luật về đất đai;
– Văn phòng đăng ký đất đai sẽ thực hiện hoạt động thu hồi và quản lý giấy chứng nhận đã thu hồi theo quyết định thu hồi giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
– Trong trường hợp người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản không đồng ý với quyết định thu hồi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
3. Hướng xử lý khi không đồng ý với quyết định thu hồi sổ đỏ, sổ hồng đã cấp:
Căn cứ theo quy định tại khoản 26 Điều 1 của Nghị định số 148/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, trong trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không đồng ý với quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì có quyền khiếu nại. Cụ thể, trình tự khiếu nại như sau:
Bước 1: Gửi đơn khiếu nại và các tài liệu có liên quan đến Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện.
Bước 2: Chủ thể có thẩm quyền sẽ tiến hành thụ lý đơn khiếu nại. Tức là trong thời gian 10 ngày được tính kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thì người có thẩm quyền cần tiến hành thủ tục thụ lý đơn và thông báo về việc thụ lý giải quyết cho người nộp đơn. Trong trường hợp không thụ lý đơn thì cần phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Bước 3: Xác minh nội dung khiếu nại trên thực tế. Cụ thể trong trường hợp này là xem xét vấn đề thu hồi sổ đỏ và sổ hồng bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có căn cứ và đúng quy định của pháp luật hay không.
Bước 4: Tổ chức đối thoại trên thực tế. Kết quả đối thoại được coi là một trong những căn cứ để giải quyết khiếu nại cho người nộp đơn. Sau đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định giải quyết khiếu nại.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Đất đai năm 2013;
– Nghị định số 148/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai;
–