Lập vi bằng là một văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật được thực hiện bởi Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định. Tuy nhiên, không phải yêu cầu nào của cá nhân tổ chức thì Thừa phát lại cũng được thực hiện lập vi bằng. Vậy những trường hợp nào thì không được lập vi bằng?
Mục lục bài viết
1. Những trường hợp nào thì không được lập vi bằng?
Cá nhân khi đủ điều kiện để bổ nhiệm thành Thừa phát lại thì sẽ thực hiện các công việc chính liên quan đến Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan; Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của Nghị định này. Ngoài ra, còn có trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan và tham gia tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan.
Có thể thấy, hoạt động lập vi bằng là công việc diễn ra chủ yếu của Thừa phát lại nhưng không phải trường hợp nào cũng được tiến hành lập vi bằng. Hiện nay, theo quy định tại Điều 37 Nghị định 08/20220/NĐ-CP có quy định về các trường hợp không được lập vi bằng như sau:
– Nghiêm cấm việc lập vi bằng trong các trường hợp đã được quy định tại khoản 4 Điều 4 của Nghị định này;
– Hành vi lập vi bằng mà gây ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh, quốc phòng bao gồm: Xâm phạm mục tiêu về an ninh, quốc phòng; làm lộ bí mật nhà nước, phát tán tin tức, tài liệu, vật phẩm thuộc bí mật nhà nước; vi phạm quy định ra, vào, đi lai trong khu vực câm, khu vực bảo vệ, vành đai an toàn của công trình an ninh, quốc phòng và khu quân sự; vi phạm quy định về bảo vệ bí mật, bảo vệ công trình an ninh, quốc phòng và khu quân sự.
– Thực hiện công việc này nhưng dẫn đến những tác động xấu ảnh hưởng đến cá nhân khác như vi phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Dân sự; hành vi được đánh giá là đang làm trái đạo đức xã hội;
– Đối với trường hợp xác nhận nội dung, việc ký tên trong hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định thuộc phạm vi hoạt động công chứng, chứng thực thì cũng không được thực hiện ; hoặc xác nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt; xác nhận chữ ký, bản sao đúng với bản chính;
– Ghi nhận sự kiện, hành vi để chuyển quyền sử dụng, quyền sở hữu đất đai, tài sản không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu theo quy định của pháp luật;
– Khi ghi nhận sự kiện, hành vi để thực hiện các giao dịch trái pháp luật của người yêu cầu lập vi bằng sẽ bị nghiêm cấm;
– Ghi nhận sự kiện, hành vi của cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân đang thi hành công vụ;
– Ghi nhận sự kiện, hành vi không do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến;
– Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
2. Quy định về xử phạt hành vi vi phạm quy định về lập vi bằng của Thừa phát lại:
Căn cứ Điểm b Khoản 2, Điểm h, Điểm i Khoản 3, các Điểm b, Điểm c, Điểm d, Điểm e, Điểm g,Điểm h, k Khoản 4 và Khoản 7 Điều 32 Nghị định
– Mức phạt tiền được áp dụng đối với hành vi sửa lỗi kỹ thuật vi bằng không đúng quy định đó là phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng;
– Khi có hành vi dưới đây thì mức phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng:
+ Tiến hành việc lập vi bằng không đảm bảo về mặt nội dung và hình thức theo quy định;
+ Không ký vào từng trang của vi bằng theo quy định.
– Bên cạnh đó, mức phạt tiền có thể lên tới từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
+ Vi phạm trong việc lập vi bằng liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người là người thân thích của mình; Các cá nhân này sẽ bao gồm: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của thừa phát lại, của vợ hoặc chồng của thừa phát lại; cháu ruột mà thừa phát lại là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì;
+ Nếu có phát hiện ra việc vi phạm lập vi bằng liên quan đến bảo đảm an ninh, quốc phòng như có hành động: Xâm phạm mục tiêu về an ninh, quốc phòng; làm lộ bí mật nhà nước, phát tán tin tức, tài liệu, vật phẩm thuộc bí mật nhà nước; vi phạm quy định ra, vào, đi lại trong khu vực cấm, khu vực bảo vệ, vành đai an toàn của công trình an ninh, quốc phòng và khu quân sự; vi phạm quy định về bảo vệ bí mật, bảo vệ công trình an ninh, quốc phòng và khu quân sự;
+ Theo yêu cầu của một cá nhân mà tiến hành lập vi bằng vi phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015; trái đạo đức xã hội;
+ Lập vi bằng sẽ chỉ được thực hiện trong một phạm vi nhất định trong trường hợp những vấn đề thuộc phạm vi của công chứng mà thừa phát lại thực hiện xác nhận nội dung, việc ký tên trong hợp đồng, giao dịch này là cũng đang vi phạm; hoặc thực hiện việc xác nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt; xác nhận chữ ký, bản sao đúng với bản chính;
+ Pháp luật cũng nghiêm cấm việc lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi để chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản mà không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu theo quy định của pháp luật;
+ Đối với trường hợp mà ghi nhận sự kiện, hành vi nhằm thực hiện các giao dịch trái pháp luật của người yêu cầu thì bị cấm hoàn toàn;
+ Đặc biệt liên quan đến việc sự kiện, hành vi của cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân đang thi hành công vụ thì Thừa phát lại cũng không được thực hiện;
+ Lập tài liệu kèm theo vi bằng không phù hợp với thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng theo quy định;
– Cá nhân không chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đó là tước quyền sử dụng thẻ thừa phát lại từ 09 tháng đến 12 tháng. Hình thức này sẽ được áp dụng đối với một trong các hành vi sau: Tiến hành việc lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi mà thừa phát lại không trực tiếp chứng kiến; Có sự thông đồng với người yêu cầu và những người có liên quan làm sai lệch nội dung của vi bằng, hồ sơ công việc;
Với quy định trên thì cá nhân là Thừa phát lại có hành vi vi phạm trong việc lập vi bằng sẽ phải chịu mức phạt hành chính vi phạm lên đến 15.000.000 đồng với cá nhân, nếu hành vi thuộc các trường hợp quy đinh tại Khoản 7 Điều 32 Nghị định 82/2020/NĐ-CP cá nhân vi phạm sẽ buộc bị tước quyền sử dụng thẻ thừa phát lại từ 09 tháng đến 12 tháng. Còn trong trường hợp hành vi vi phạm quy định thuộc Khoản 8, Khoản 9 Điều 32 Nghị định 82/2020/NĐ-CP sẽ phải thi hành các hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định.
3. Quy định nghiêm cấm lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi của cán bộ, công chức có thật sự cần thiết không?
Như đã trình bày thì trong Nghị định số 08/2020/NĐ-CP cũng đã ghi nhận thừa phát lại được lập vi bằng ghi nhận các sự kiện, hành vi có thật theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc. Nhưng bên cạnh đó tại khoản 7 điều 37 Nghị định này lại có một hành vi nghiêm cấm thừa phát lại lập vi bằng đó là không được lập vi bằng “Ghi nhận sự kiện, hành vi của cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân đang thi hành công vụ”.
Với quy định trên thì tác giả nhận thấy có những điểm bất cập đáng phải nói đến vì việc áp dụng quy định này trên thực tế không đảm bảo được sự minh bạch trong giải quyết tranh chấp mà có vi bằng được sử dụng để làm chứng cứ, cụ thể:
Thứ nhất, trong khi tham gia thực hiện thủ tục hành chính thì sẽ có một số trường hợp hành vi của cán bộ, công chức không thực hiện đúng trách nhiệm của mình làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người dân. Nên việc người dân đề nghị lập vi bằng ghi nhận hành vi này là hoàn toàn chính đáng; Việc này có thể gián tiếp làm cho một số bộ phận cán bộ, công chức, viên chức không làm tốt trách nhiệm của mình, gây khó khăn, sách nhiễu người dân;
Thứ hai, những quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính… không chỉ tồn tại giữa các cá nhân với nhau mà còn là giữa cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu lập vi bằng.
Vì vậy, nếu vẫn giữ nguyên quy định trên thì Bộ Tư pháp cần có văn bản hướng dẫn thống nhất thực hiện vấn đề này. Trong tương lai thì việc sửa đổi quy định này trong Nghị định 08 là cần thiết, theo hướng cho phép lập vi bằng về hành vi của cán bộ, công chức, viên chức, trừ trường hợp việc lập vi bằng đó gây cản trở trái pháp luật trong quá trình thi hành công vụ của họ.
Văn bản pháp luật được sử dụng:
Nghị định số 08/2020/NĐ-CP của Chính phủ: Về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại.
THAM KHẢO THÊM: