Xã hội phong kiến phương Tây được hình thành muộn hơn (từ thế kỷ V đến khoảng thế kỷ X), phát triển trong giai đoạn từ thế kỷ XI đến khoảng thế kỷ XV, kết thúc sớm hơn, rơi vào khủng hoảng suy vong (từ thế kỷ XIV đến khoảng thế kỷ XV) nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản. Vậy Những sự kiện chủ yếu về quá trình hình thành xã hội phong kiến Tây Âu là gì?
Mục lục bài viết
- 1 1. Những sự kiện chủ yếu về quá trình hình thành xã hội phong kiến Tây Âu?
- 2 2. Sự hình thành và phát triển của xã hội phong kiến Tây Âu:
- 3 3. Sơ kì trung đại (thế kỉ V- XI): thời kì hình thành chế độ phong kiến
- 4 4. Trung kì trung đại (XI- XV): thời kì phát triển của chế độ phong kiến.
- 5 5. Hậu kì trung đại (thế kỉ XV- XVI): Thời kì suy tàn chế độ phong kiến
1. Những sự kiện chủ yếu về quá trình hình thành xã hội phong kiến Tây Âu?
Đầu thế kỷ IV chứng kiến sự suy yếu của đế chế La Mã cổ đại khi bộ tộc Giéc-man tiến hành các cuộc xâm lược không khoan nhượng. Năm 476, chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã sụp đổ, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử Tây Âu khi nhiều vương quốc Giéc-man liên tiếp xuất hiện.
Từ thế kỷ VI đến thế kỷ IX, xã hội phong kiến Tây Âu dần hình thành một cách đồng nhất, với sự phát triển của hai giai cấp mới là lãnh chúa phong kiến và nông nô.
Lãnh chúa phong kiến, bao gồm các quý tộc quân sự và quý tộc tăng lữ, hợp nhất thành một giai cấp thống trị, sở hữu tài nguyên, giàu có, và sở hữu quyền lực to lớn trong xã hội. Trong khi đó, nông nô bao gồm cả nô lệ được giải phóng và nông dân tự do nhưng vẫn phải chịu áp bức, bị cướp đoạt ruộng đất và tài sản của mình bởi lãnh chúa và quý tộc phong kiến. Điều này tạo ra một bất bình đẳng rõ ràng giữa hai giai cấp này trong xã hội phong kiến phát triển.
2. Sự hình thành và phát triển của xã hội phong kiến Tây Âu:
Từ thế kỷ V đến IX là thời kỳ quan trọng trong việc thiết lập chế độ phong kiến ở Tây Âu. Sự ra đời của chế độ phong kiến tại khu vực này được xây dựng dựa trên cơ sở của sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ của La Mã cổ đại và sự tan rã của chế độ thị tộc của người German. Quá trình hình thành chế độ sản xuất phong kiến đi đôi với sự xuất hiện của hai giai cấp cơ bản trong xã hội phong kiến, đó là giai cấp lãnh chúa và giai cấp nông dân. Để hình thành hai giai cấp này, xã hội phải trải qua một quá trình phong kiến hóa, trong đó ruộng đất chuyển từ tay nhiều người sang tay một số người để họ trở thành lãnh chúa phong kiến. Đồng thời, trong quá trình này, nông dân tự do cũng mất đi ruộng đất của mình và trở thành nông nô, cùng với các tầng lớp nhân dân khác.
3. Sơ kì trung đại (thế kỉ V- XI): thời kì hình thành chế độ phong kiến
Từ thế kỷ V đến IX, chế độ phong kiến ở Tây Âu đã được hình thành thông qua quá trình “phong kiến hóa”.
Dưới thời của Clôvit, chế độ phong kiến được thực hiện thông qua việc ban tặng ruộng đất cho quý tộc, thị tộc Gecmanh, thân binh và chủ nô Rôma. Điều này đã tạo ra sự tăng lữ trong nhà thời Kitô giáo. Ban đầu, đất được tặng có thể là ruộng đất “ân tứ” – một loại đất được cho không, như một ân huệ từ nhà vua đối với những người có công. Sau đó, đất “ân tứ” dần trở thành đất Anlơ (đất tự do), có quyền nhượng lại, mua bán và trao đổi.
Dưới thời của tể tướng Saclơ Macten, chế độ ban cấp ruộng đất được thực hiện, được gọi là Bênêphixium (đất phong quân vụ). Điều này có nghĩa là người nhận ruộng đất phải có nghĩa vụ quân sự đối với người ban cấp ruộng đất cho mình. Người được phong đất phải thề trung thành với tôn chủ (người phong đất) và phải thực hiện nghĩa vụ quân sự 40 ngày/năm. Đất phong chỉ được sử dụng suốt đời và có thể bị chủ đất lấy lại nếu người nhận đất không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ.
Từ thế kỷ IX đến XI, là thời kỳ tồn tại của chế độ phong kiến phân quyền. Toàn bộ nền kinh tế Tây Âu tập trung trong các lãnh địa phong kiến. Mỗi lãnh địa phong kiến là một vương quốc khép kín riêng, mỗi lãnh chúa là một ông vua con và mỗi lãnh địa là một đơn vị kinh tế-chính trị độc lập.
4. Trung kì trung đại (XI- XV): thời kì phát triển của chế độ phong kiến.
Thế kỷ XI chứng kiến sự xuất hiện của thành thị trung đại ở Tây Âu, một diễn biến mang tính bước ngoặt quan trọng, làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của chế độ phong kiến Tây Âu trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa.
– Phát triển kinh tế: Thành thị trung đại thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Việc này dẫn đến sự nhanh chóng tan rã của nền kinh tế tự nhiên trước đó.
– Thay đổi xã hội: Sự xuất hiện của thành thị góp phần vào việc giải thể chế độ nông nô. Đồng thời, nó tạo điều kiện cho sự xuất hiện của một tầng lớp mới trong xã hội, được gọi là tầng lớp thị dân. Mặc dù số lượng không nhiều, nhưng tầng lớp này lại chiếm phần lớn của tài sản xã hội và ngày càng trở nên mạnh mẽ. Họ đóng vai trò to lớn trong đời sống chính trị Tây Âu, thường làm đồng minh của nhà vua và là nhân tố quyết định trong việc chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ tập quyền.
– Chuyển đổi chính trị: Thành thị trung đại đóng vai trò tích cực trong việc chuyển đổi từ chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ tập quyền.
Trích dẫn của Mac về thành thị thể hiện sự đối lập giữa phương Đông và phương Tây. Trong khi ở phương Đông, thành thị thường được coi là những biểu hiện của sự lạc hậu và lạc thổ, thì ở phương Tây, nó lại được xem như những biểu tượng của sự phồn thịnh và sự tiến bộ của thời trung đại.
5. Hậu kì trung đại (thế kỉ XV- XVI): Thời kì suy tàn chế độ phong kiến
Đây là thời kì suy tàn của chế độ phong kiến Tây Âu, quan hệ sản xuất TBCN đã xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến Tây Âu.
Về kinh tế:
– Kinh tế hàng hóa tiền tệ phát triển, đẩy lùi kinh tế tự nhiên, các tổ chức kinh tế theo lối phong kiến được thay thế bằng các hình thức sản xuất mới theo lối TBCN. VD: phường hội được thay thế bằng các công trường thủ công.
– Các tổ chức hội buôn được thay bằng các công ty thương mại.
– Trong nông nghiệp: các lãnh địa bị xóa bỏ, thay bằng các trang trại kinh doanh theo lối TBCN.
Về xã hội:
Về mặt xã hội, đã có sự thay đổi đáng kể. Trong thời kỳ sơ khai và trung đại, quan hệ bóc lột giữa lãnh chúa và nông dân đã được thay thế bằng quan hệ bóc lột giữa chủ và thợ. Hình thức bóc lột lao động làm thuê và bóc lột giá trị thặng dư đã thay thế cho hình thức bóc lột cưỡng bức của nông dân. Trong mối quan hệ này, chủ cung cấp vốn và thợ cung cấp lao động.
Giai cấp tư sản đã xuất hiện trong xã hội, bao gồm một số thương nhân giàu có, chủ đất và một phần của tầng lớp thị dân giàu có. Bên cạnh những mâu thuẫn truyền thống, những mâu thuẫn mới đã xuất hiện: mâu thuẫn giữa tư sản và phong kiến, và mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản. Trong đó, mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản mới chỉ mới nảy sinh và chưa thể hiện sâu sắc. Trái lại, mâu thuẫn giữa tư sản và phong kiến là mâu thuẫn cơ bản, đặc biệt là trong thời kỳ hậu phong kiến.
Do đó, cuộc đấu tranh của tư sản chống lại phong kiến đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy xã hội phong kiến Tây Âu hậu kì. Điều này làm cho xã hội phong kiến phân rã nhanh chóng hơn, mở ra con đường cho sự phát triển của sản xuất thương mại và nền kinh tế chủ nghĩa tư bản.
Về chính trị: Từ cuối thế kỉ XV, chế độ phong kiến trung ương tập quyền đã hình thành, tiếp tục phát triển thành nhà nước quân chủ chuyên chế (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha). Bên cạnh vua vẫn có nghị viện, hội nghị 3 đẳng cấp như một cơ quan tư vấn giúp nhà vua cai trị. Nhà nước quân chủ chuyên chế thời kì này có sự liên minh giữa tư sản và phong kiến. Chính quyền phong kiến khuyến khích tư sản kinh doanh phát triển kinh tế nhưng trong khuôn khổ của chế độ phong kiến.
Về văn hóa: thời kì này diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt về văn hóa tư tưởng giữa giai cấp tư sản và phong kiến, được biểu hiện qua các phong trào Văn hóa Phục hưng, cải cách tôn giáo, chiến tranh nông dân Đức, Cách mạng tư sản Nêđeclan.
THAM KHẢO THÊM: