Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã dành chương XI quy định về vấn đề quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Quy định đã có những ưu điểm tích cực nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những lỗ hổng cần phải sử đổi:
Thứ nhất, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài chưa đầy đủ.
– Các quy định về điều kiện kết hôn trong Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam được áp dụng chung cho cả các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài mà chưa có những quy định riêng về các điều kiện kết hôn với người nước ngoài (chẳng hạn quy định không quá chênh lệch về tuổi tác, có hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên tại thời điểm đăng ký kết hôn) .
– Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/ NĐ-CP cho phép từ chối đăng ký kết hôn (điểm b, khoản 1 Điều 16) nhưng chưa có văn bản hướng dẫn xác định các căn cứ cụ thể để làm cơ sở cho việc từ chối (như trường hợp chênh lệch tuổi tác).
– Chưa có những quy định hướng dẫn hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn trong việc thực hiện chức năng tư vấn, môi giới hôn nhân.
– Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có những quy định về xác lập thông tin về tình hình sinh sống của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài (chẳng hạn pháp luật chưa có quy định việc bảo hộ cho công dân Việt Nam là phụ nữ Việt Nam sau khi kết hôn sang định cư ở Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc nên việc giúp đỡ các cô dâu Việt Nam khi gặp hoàn cảnh khó khăn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân: trình độ thấp, không có thông tin về các cơ quan ngoại giao,…);
– Chưa có những quy định để giải quyết vướng mắc về hộ tịch cho trẻ em là con chung của phụ nữ Việt Nam và người nước ngoài khi theo mẹ về cư trú ở trong nước.
Thứ hai, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có những điểm chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
– Một số hệ thuộc luật áp dụng chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn áp dụng pháp luật.
– Cơ chế về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Hỗ trợ kết hôn thuộc Hội liên hiệp phụ nữ chưa thực sự hiệu quả để các trung tâm này hoạt động có hiệu quả, góp phần bảo đảm việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đúng pháp luật và lành mạnh.
– Pháp luật chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng kết hôn giả tạo nhằm mục đích khác.
Thứ ba, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có những điểm còn khó khăn trong việc áp dụng. Chẳng hạn quy định về công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài về việc ly hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 còn khó khăn trong việc áp dụng.
Thứ tư, hệ thống phát luật còn thiếu vắng những thỏa thuận hợp tác, Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước để tạo lập cơ chế hữu hiệu cho việc bảo hộ công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và sinh sống tại nước ngoài.
Để giải quyết những vấn đề xung đột pháp luật và bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân sinh sống ở nước khác, việc các nước ký kết các thỏa thuận hợp tác cấp nhà nước về dân sự, các Hiệp định tương trợ tư pháp là biện pháp hữu hiệu, tuy nhiên tại Việt Nam việc nghiên cứu, đề xuất việc đàm phán, ký kết thỏa thuận với các nước hữu quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài trên các phương diện quốc tịch, cư trú, hôn nhân và gia đình, tài sản… phù hợp với pháp luật của Việt Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế còn chậm.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Thực tế cũng cho thấy do chưa có văn bản hợp tác cấp nhà nước để có giải pháp chung giải quyết những vấn đề xung đột pháp luật nên trong quan hệ công dân Việt Nam kết hôn với công dân ở một số nước, vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Đài Loan nên trên thực tế đã nảy sinh tình trạng lách luật trong việc đăng ký kết hôn, quyền lợi của công dân Việt Nam sinh sống ở nước ngoài chưa được bảo hộ đúng mức. Chẳng hạn, pháp luật Hàn Quốc chấp nhận việc đăng ký kết hôn vắng mặt, trong khi đó pháp luật Việt Nam yêu cầu hai bên nam nữ phải có mặt khi làm thủ tục đăng ký kết hôn. Nhiều đôi trong hôn nhân Hàn-Việt chưa có điều kiện gặp gỡ, tìm hiểu đã đi đến quyết định kết hôn, để giảm thiểu chi phí đi lại, phía Việt Nam sẽ gửi hồ sơ (giấy xác nhận độc thân, bản sao khai sinh, chứng minh nhân dân) sang Hàn Quốc để kê khai việc kết hôn và được nhập tên vào sổ hộ khẩu gia đình người chồng tại Hàn Quốc. Sau đó, công dân Việt Nam có thể đến lãnh sự quán Hàn Quốc tại Việt Nam để được cấp giấy chứng nhận không cản trở việc kết hôn theo luật pháp Hàn Quốc, làm thủ tục ghi chú kết hôn tại Sở Tư pháp và thực hiện các thủ tục để xuất cảnh đến Hàn Quốc. Ngoài ra, một số quy định của pháp luật Hàn Quốc còn có một số quy định bất lợi đối với người phụ nữ như trường hợp người vợ phải làm việc nhà, nuôi dạy con cái thì không được công nhận đóng góp trong việc hình thành tài sản chung vợ chồng, thủ tục nhập quốc tịch Hàn Quốc tương đối khó khăn và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho phía công dân nước ngoài.
Một số điểm bất cập nói trên đặt ra yêu cầu nghiên cứu tổng thể và kỹ càng hơn quy định pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để bảo vệ những cuộc hôn nhân tự nguyện tiến bộ, ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật và bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam sinh sống ở nước ngoài.