Theo quy định của Bộ luật dân sự, chủ thể của một quan hệ pháp luật ngoài cá nhân còn có pháp nhân. Một tổ chức được coi là pháp nhân chi khi đáp ứng đủ được các điều kiện theo quy định. Vậy những doanh nghiệp nào không có tư cách pháp nhân?
Mục lục bài viết
1. Quy định về điều kiện của pháp nhân:
Hiện nay, Bộ luật dân sự năm 2015 không có định nghĩa về pháp nhân nhưng có thể hiểu pháp nhân là một tổ chức đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Pháp nhân theo quy định tại Điều 75 Bộ luật dân sự phải đáp ứng các điều kiện sau:
– Phải được thành lập đúng quy định của pháp luật (pháp luật dân sự và pháp luật về doanh nghiệp): Tổ chức phải được thành lập theo đúng trình tự, thủ tục tương ứng do pháp luật quy định cho loại hình tổ chức đó.
– Điều kiện về cơ cấu tổ chức gồm cơ quan điều hành được quy định chi tiết trong điều lệ hoặc quyết định thành lập về việc tổ chức, nhiệm vụ cũng như quyền hạn của cơ quan điều hành và có các cơ quan khác theo quyết định của chính pháp nhân đó hoặc theo quy định của pháp luật.
– Điều kiện về tài sản: tài sản phải độc lập với những cá nhân hoặc pháp nhân khác, tức là tài sản của tổ chức phải hoàn toàn biệt lập, tách biệt với tài riêng của thành viên hoặc tài sản của cơ quan sáng lập tổ chức.
– Phải tự chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của tổ chức đó.
– Nhân danh chính mình để tham gia vào các quan hệ pháp luật độc lập: Tổ chức bằng các điều kiện và khả năng tài sản của mình, với tư cách pháp lí của chính mình để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng như gánh chịu trách nhiệm dân sự phát sinh từ đó.
Như vậy, một tổ chức được coi là pháp nhân chỉ khi đáp ứng đủ các điều kiện trên, nếu thiếu một trong các điều kiện thì không được coi là pháp nhân.
2. Những doanh nghiệp nào không có tư cách pháp nhân?
Loại hình doanh nghiệp hiện nay gồm có 05 loại, bao gồm:
– Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
– Công ty trách nhiệm hữu hạn 02 thành viên.
– Công ty cổ phần.
– Công ty hợp danh.
– Doanh nghiệp tư nhân.
Trong 05 loại hình doanh nghiệp trên thì có công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn 01 thành viên, công ty cổ phần là đáp ứng đủ các điều kiện được coi là một pháp nhân.
Còn lại loại hình doanh nghiệp tư nhân không được coi là pháp nhân. Cụ thể:
* Đối với doanh nghiệp tư nhân:
Căn cứ Điều 188
– Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu.
– Chủ doanh nghiệp tư nhấn sẽ phải tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do tính chất độc lập về tài sản không có nên chủ doanh nghiệp Tư nhân, người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của doanh nghiệp sẽ phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn. Chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng kí mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng kí không đủ.
– Doanh nghiệp tư nhấn không có tư cách pháp nhân: Về nguyên tắc, mỗi pháp nhân sẽ phải có tài sản riêng tách bạch giữa tài sản của pháp nhân đó với những người tạo ra pháp nhân. Theo đó, doanh nghiệp tư nhân không có sự độc lập về tài sản vì tài sản của doanh nghiệp tư nhân không độc lập trong quan hệ với tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân.
– Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
– Về vốn của doanh nghiệp tư nhân: nguồn vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân sẽ xuất phát từ tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư.
Bên cạnh doanh nghiệp tư nhân thì cũng có những tổ chức hành nghề khác được tổ chức và hoạt động theo mô hình của doanh nghiệp tư nhân gồm các văn phòng luật sư, văn phòng thừa phát lại; doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phá sản.
+ Văn phòng luật sư: do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời người đứng đầu thành lập văn phòng luật sư là trưởng phòng luật sư, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của văn phòng do đó không đáp ứng tiêu chí tài sản độc lập của một pháp nhân.
+ Văn phòng thừa phát lại: có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính. Văn phòng thừa phát lại có trưởng văn phòng và cũng chính là người đại diện theo pháp luật của văn phóng đó. Cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành, chế độ tài chính của văn phòng Thừa phát lại thực hiện theo quy định. Khi đăng ký thành lập, phải kỹ quỹ cho mỗi thừa phát lại hoặc có bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Việc ký quỹ được thực hiện tại các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại.
+ Doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản cơ bản được hiểu là doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản cuar doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Doanh nghiệp này được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.
* Đối với công ty hợp danh sẽ đặc thù hơn một chút như sau:
Theo quy định tại Điều 177 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định công ty hợp danh phải đảm bảo có tối thiểu 02 thành viên là chủ sở hữu công ty và cùng nhau kinh doanh dưới tên chung.
Tuy nhiên, ngoài những thành viên hợp danh, công ty còn có thêm thành viên góp vốn, theo đó:
– Thành viên hợp danh: là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
– Thành viên góp vốn: là tổ chức, cá nhân và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Do đó, thành viên hợp danh không có tài sản độc lập với cá nhân nhưng công ty hợp danh lại tồn tại có thành viên góp vốn, đây là những thành viên có tài sản độc lập với công ty. Chính vì vậy, công ty hợp danh là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
3. Chi nhánh, văn phòng đại diện có tư cách pháp nhân không?
Theo quy định, chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, nhiệm vụ của chi nhánh là thực hiện một phần hoặc toàn bộ chức năng của doanh nghiệp, gồm cả chức năng đại diện theo ủy quyền.
Đặc điểm chung của các chi nhánh đều là một đơn vị phụ thuộc vào pháp nhân, tuy được thành lập hợp pháp và có con dấu và tài khoản riêng nhưng chưa độc lập hoàn toàn về tài sản, chi nhánh pháp nhân phải nhân danh pháp nhân xác lập, thực hiện các giao dịch chứ không nhân danh bản thân chi nhánh xác lập, thực hiện giao dịch.
Với chi nhánh, mặc dù không có tư cách pháp nhân tuy nhiên hoạt động kinh doanh chi nhánh vẫn được thực hiện trong phạm vi mà pháp luật không cấm.
Còn văn phòng đại diện cũng là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ các lợi ích đó. Một điểm quan trọng là, văn phòng đại diện không thực hiện chức năng kinh doanh của doanh nghiệp như chi nhánh. Mục đích thành lập của văn phòng đại diện là nơi để quảng bá các sản phẩm của pháp nhân, nơi tiếp xúc với khách hàng, giải đáp, tư vấn cho khách hàng về những dịch vụ, sản phẩm của pháp nhân.
Theo đó, chi nhánh, văn phòng đại diện chỉ là một đơn vị thuộc của một doanh nghiệp và chỉ đáp ứng yêu cầu là được thành lập hợp pháp, có con dấu riêng, có tổ chức của bộ máy đầy đủ. Còn yếu tố độc lập về tài sản thì chi nhánh chưa đáp ứng được và cũng không thể tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, do đó, chi nhánh không phải là pháp nhân.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
Luật doanh nghiệp năm 2020.
THAM KHẢO THÊM: