Theo quy định của pháp luật dân sự quy định về các vấn đề trong dân sự là các quan hệ, giao dịch hoặc thành lập các tổ chức đại diện trong các quan hệ dân sự, có thể được mở chi nhánh và văn phòng đại diện hoạt động. Cùng tìm hiểu về pháp nhân và giải thể pháp nhân qua bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Quy định về pháp nhân?
1.1. Pháp nhân là gì?
Pháp nhân theo khái niệm pháp luật thì chưa có một khái niệm nào cụ thể quy định nhưng dựa trên những căn cứ, điều kiện liên quan đến pháp nhân thì có thể hiểu pháp nhân là một tổ chức (một chủ thể pháp luật) có tư cách pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội… theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 82
1.2. Tư cách pháp nhân:
Theo điều 74
Tổ chức đó được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 (áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam): Theo như khái niệm thì rõ ràng pháp nhân không phải là một người (một cá nhân) mà phải là một tổ chức và tổ chức này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập. Vì vậy tổ chức đó được Nhà nước công nhận là có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận thành lập.
Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ được quy định tại Điều 83 là phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân. Ngoài tên riêng được đăng ký để gọi và sử dụng trong các giao dịch, pháp nhân phải có điều lệ hoạt động rõ ràng, có cơ cấu tổ chức cụ thể, có người đại diện theo pháp luật để nhân danh (thay mặt, đại diện) cho pháp nhân thực hiện các giao dịch.
Bên cạnh đó, pháp nhân phải là một tổ chức độc lập, tức là: Pháp nhân không bị chi phối bởi các chủ thể khác khi quyết định các vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức đó trong phạm vi điều lệ, quyết định thành lập và các quy định của pháp luật đối với tổ chức đó; Pháp nhân có ý chí riêng và hành động theo ý chí của mình; Sự tồn tại của pháp nhân không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên của pháp nhân. Có nhiều tổ chức thống nhất nhưng không độc lập như các phòng, ban, khoa… trong các trường học, các tổ chức là một bộ phận của pháp nhân.
Theo quy định của pháp luật thì pháp nhân phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản độc lập đó tức là chính pháp nhân đó có sở hữu một lượng tài sản nhất định để sử dụng trong các giao dịch và chịu trách nhiệm hoàn toàn với các tài sản đó.
Tài sản độc lập đó được pháp luật công nhận thuộc quyền sở hữu của pháp nhân, tức là pháp nhân có toàn quyền sử dụng mà không chịu sự chi phối, kiểm soát của bất kỳ ai. Tài sản đó phải hoàn toàn tách biệt với tài sản của các cá nhân là thành viên nên các thành viên chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp vào tổ chức.
Pháp nhân có quyền nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua người đại diện theo pháp luật một cách độc lập và là một cá nhân có quyền thực hiện mọi giao dịch dân sự phát sinh trong quá trình hoạt động. Đối với các giao dịch mà xảy ra tranh chấp hoặc trong giải thể thì pháp nhân tham gia với tư cách là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trước
Theo Bộ luật dân sự năm 2015 cụ thể căn cứ tại Điều 75 và 76 thì Pháp nhân được thành lập dưới hai hình thức đó là pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại và mỗi pháp nhân có mục tiêu phát triển khác nhau.
1.3. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân:
Từ khi đăng ký thành lập pháp nhân thì phát sinh trách nhiệm khi thực hiện các quyền, nghĩa vụ tương ứng với phần công việc. Theo đó, pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân và chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình là tài sản góp vào khi thành lập.
Pháp nhân không được phép chịu trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, ngoại trừ các trường hợp luật có quy định khác. Người của pháp nhân sẽ không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác. Thực hiện những nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, ngoại trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Quy định về giải thể pháp nhân:
2.1. Giải thể pháp nhân là gì?
Các căn cứ giải thể pháp nhân được quy định tại Điều 93
Theo đó, pháp nhân giải thể trong trường hợp sau đây:
+ Theo quy định của điều lệ của pháp nhân nằm trong mục nội dung của điều lệ tại điểm l, khoản 2 Điều 77 Bộ luật dân sự năm 2015.
+ Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như điều kiện thành lập là do cơ quan Nhà nước quyết định thành lập khi đáp ứng điều kiện tại Điều 74 và trong trường hợp pháp nhân có vi phạm liên quan đến quyền, nghĩa vụ và chức năng của mình thì sẽ bị cơ quan thành lập ra quyết định giải thể.
+ Hết thời hạn hoạt động được ghi trong điều lệ hoặc trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
Từ nội dung trên có thể thấy nguyên nhân dẫn đến việc giải thể pháp nhân có thể là pháp nhân đó đã thực hiện xong nhiệm vụ; đạt được mục đích khi thành lập pháp nhân đó đặt ra; hoạt động của pháp nhân trái với mục đích khi thành lập gây thiệt hại đến lợi ích của xã hội, vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc sự tồn tại của pháp nhân không cần thiết nữa; khi thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ đã hết…
Việc giải thể pháp nhân sẽ dẫn đến việc chấm dứt tư cách pháp nhân trong các quan hệ gia dịch pháp luật. Chấm dứt tư cách pháp nhân là chấm dứt sự tồn tại của một tổ chức với tư cách là chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật mà trước đó tổ chức đó tham gia với tư cách pháp nhân.
Các căn cứ làm chấm dứt pháp nhân được quy định tại Điều 96
Như vậy, có thể thấy pháp nhân chỉ được phép thành lập bởi Nhà nước khi đáp ứng được các điều kiện cần thiết phải có và phải tiến hành đi vào hoạt động theo đúng Điều lệ được lập ra.
2.2. Điều kiện giải thể pháp nhân:
Trên thực tế cho thấy đối với điều kiện giải thể doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đã góp phần tạo cơ sở pháp lý để chấm dứt tồn tại hoạt động của doanh nghiệp, ngoài ra còn có một lợi ích là còn bảo vệ được quyền lợi của những chủ thể khác có liên quan đối với doanh nghiệp, đặc biệt là quyền lợi của chủ nợ và người lao động khi doanh nghiệp chấm dứt tồn tại. Do vậy, việc xác định rõ điều kiện để tiến hành giải thể doanh nghiệp là hết sức cần thiết đối với người thành lập doanh nghiệp.
Vấn đề quan trọng đặt ra trong giải thể doanh nghiệp có tư cách pháp nhân là phải giải quyết những khoản nợ và những hợp đồng mà doanh nghiệp đã giao kết trước khi doanh nghiệp giải thể. Các khoản nợ và hợp đồng này có thể được thực hiện bằng các giải pháp được quy định như việc tiến hành thanh toán hết các khoản nợ và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng còn lại; chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ và nghĩa vụ hợp đồng cho chủ thể khác đã thanh toán theo thỏa thuận giữa các bên.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 207
Như vậy, từ nội dung căn cứ trên thì đối với điều kiện để giải thể doanh nghiệp có tư cách pháp nhân là phải giải quyết nội dung hợp đồng đầu tiên, phải đảm bảo thanh toán được các nghĩa vụ tài chính của mình, sau đó đối với việc giải thể doanh nghiệp thì có hai trường hợp là giải thể tự nguyện hoặc giải thể bắt buộc.