Ngày 20/11/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) gồm 7 chương 102 điều với nhiều điểm mới.
Ngày 20/11/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) gồm 7 chương 102 điều với nhiều điểm mới như sau:
Quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế – xã hội
Điều 7 của Luật quy định rõ hơn thẩm quyền của Quốc hội, theo đó Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội, quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định các chính sách cơ bản về đối ngoại của Nhà nước.
Trưng cầu ý dân
Luật bổ sung quy định về những vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân và nguyên tắc tổ chức trưng cầu ý dân. Điều 19 của Luật quy định, Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp hoặc về những vấn đề quan trọng khác theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.
Thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính
Điều 14 và Điều 56 của Luật cụ thể hóa thẩm quyền thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính.
Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt theo đề nghị của Chính phủ. Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật.
Quyền tham gia làm thành viên và tham gia hoạt động của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội
Luật bổ sung quy định quyền của đại biểu Quốc hội tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội; có cơ chế để đại biểu Quốc hội có thể đăng ký tham dự các phiên họp của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội về các nội dung mà đại biểu quan tâm.
Hoạt động chất vấn tại phiên họp
Điều 32 của Luật bổ sung quy định về hoạt động chất vấn tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản; Trường hợp đại biểu Quốc hội chưa đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại tại phiên họp của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc gửi chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn.
Tổ chức giám sát, tham gia hỗ trợ hoạt động giám sát tại địa phương
Luật cũng bổ sung nhiệm vụ của đoàn đại biểu trong việc tổ chức giám sát, tham gia hỗ trợ hoạt động giám sát tại địa phương, yêu cầu cơ quan, tổ chức liên quan cung cấp thông tin báo cáo về những vấn đề đại biểu quan tâm, quy định rõ hơn về điều kiện hoạt động của đại biểu.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Chính sách của đại biểu Quốc hội
Điều 41 của Luật quy định cụ thể về phụ cấp và các chế độ khác của đại biểu Quốc hội chuyên trách, phụ cấp của đại biểu Quốc hội không hưởng lương từ ngân sách nhà nước do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định. Đại biểu Quốc hội được cấp hoạt động phí hằng tháng, kinh phí để thực hiện chế độ thuê khoán chuyên gia, thư ký giúp việc và các hoạt động khác để phục vụ cho hoạt động của đại biểu theo quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Đổi mới phương thức tham gia xem xét, cho ý kiến về các vấn đề quan trọng của quốc gia
Về đổi mới phương thức tham gia xem xét, cho ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quan trọng của quốc gia, Điều 47 của Luật quy định, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về việc chuẩn bị các dự án luật, dự thảo nghị quyết, các báo cáo và các dự án khác trình Quốc hội; xem xét báo cáo tổng hợp kết quả thảo luận của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội tại Đoàn đại biểu Quốc hội; dự kiến các vấn đề đưa ra thảo luận tại phiên họp toàn thể của Quốc hội.
Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội với các cơ quan khác của Quốc hội
Luật phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội về công tác bầu cử với Hội đồng bầu cử quốc gia; làm rõ thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội. Cụ thể hóa vai trò chỉ đạo, điều hòa, phối hợp của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, tạo sự chủ động cho Hội đồng, Ủy ban trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, bảo đảm mỗi nhiệm vụ chỉ giao cho một cơ quan thực hiện và chịu trách nhiệm để không có sự chồng chéo; đối với những nhiệm vụ liên quan đến nhiều cơ quan thì phải có cơ chế chủ trì, phối hợp.
Thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Điều 49 của Luật quy định cụ thể quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, theo đó: Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận hoặc kiến nghị của đại biểu Quốc hội quyết định việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; Tùy theo tính chất, nội dung của vấn đề cần được giải thích, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội xây dựng dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định; Dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh phải được Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh với tinh thần và nội dung quy định được giải thích của Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước
Tại Điều 53, Luật đã cụ thể hóa việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước, theo đó, Quốc hội Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, Tổng thư ký Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bảo vệ Hiến pháp
Luật Tổ chức Quốc hội đã bổ sung quy định về trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của Ủy ban pháp luật – cơ quan của Quốc hội. Theo đó, Điều 70 về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban pháp luật, thì cơ quan này có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.