Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của những tổ chức, cá nhân khác nhau. Vậy nhãn hiệu hàng hóa là tài sản hay nguồn vốn doanh nghiệp?
Mục lục bài viết
1. Nhãn hiệu hàng hóa là tài sản hay nguồn vốn doanh nghiệp:
Nhãn hiệu được giải thích tại khoản 16 Điều 4 Văn bản hợp nhất 11/VBHN-VPQH 2022 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ, đó là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của những tổ chức, cá nhân khác nhau. Hiểu đơn giản hơn thì nhãn hiệu về cơ bản chính là một dấu hiệu được sử dụng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ được cung cấp bởi một doanh nghiệp với các hàng hóa hoặc dịch vụ được cung cấp bởi doanh nghiệp khác. Về cơ bản thì một nhãn hiệu có hai đặc điểm chính: nó phải có tính phân biệt và không lừa dối. Chính vì vậy, một định nghĩa chính thức cho thuật ngữ nhãn hiệu có thể là: “Nhãn hiệu là một dấu hiệu đặc thù hoá hàng hóa của một doanh nghiệp và phân biệt chúng với các hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh”. Nhãn hiệu có thể bao gồm có từ ngữ, hình ảnh, chữ cái, chữ số hoặc bao bì, khẩu hiệu, tập hợp từ, biểu tượng, v.v.. Có thể nói rằng nhãn hiệu dịch vụ cũng giống như nhãn hiệu hàng hóa, chỉ khác là nhãn hiệu hàng hóa thì bảo hộ cho hàng hóa, trong khi nhãn hiệu dịch vụ thì sẽ bảo hộ cho dịch vụ. Nói chung là thuật ngữ nhãn hiệu bao gồm cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ.
Nhãn hiệu là một phần của tài sản trí tuệ và mục đích bảo hộ nhãn hiệu đó là bảo vệ danh tiếng của sản phẩm chứ không phải là những sáng chế hoặc ý tưởng đằng sau sản phẩm đó. Nhãn hiệu có thể được sở hữu bởi những cá nhân hoặc các công ty và cần được đăng ký ở tại cơ quan có thẩm quyền và đó thường là Cơ quan Nhãn hiệu. Khi mà nhãn hiệu được sử dụng liên quan tới các dịch vụ thì được gọi là “nhãn hiệu dịch vụ”.
Nhãn hiệu thường đảm bảo một mức độ nhất quán về chất lượng – nó tốt hoặc là tồi. Nhãn hiệu giúp người sử dụng kinh nghiệm của mình để trở lại với một sản phẩm hoặc là dịch vụ mong muốn hoặc tránh các sản phẩm hoặc dịch vụ không mong muốn.
Nói chung, nhãn hiệu cần phải có tính phân biệt và không được là một tên gọi chung hoặc là đơn thuần chỉ mô tả hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu. Ví dụ như từ “rau quả” (vegetable) không thể được đăng ký làm nhãn hiệu của một siêu thị bởi vì nó mô tả những mặt hàng mà siêu thị bán. Bên cạnh đó, dấu hiệu này cũng không thể được đăng ký để làm nhãn hiệu cho cà rốt, bởi vì đó là tên gọi chung của cà rốt. Mặt khác thì từ “rau quả” lại có thể được đăng ký làm nhãn hiệu cho một sản phẩm xe đạp bởi vì nó không hoặc rất ít liên quan tới xe đạp.
Khác với những tài sản thông thường thì nhãn hiệu hàng hóa là một tài sản đặc biệt – tài sản vô hình, mà giá trị vật chất và tinh thần của nó sẽ không dễ dàng xác định được.
Theo GS.TS Ngô Huy Cương (2006) đã cho rằng tài sản là một phạm trù động mà phạm vi của nó có thể thay đổi theo những giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội nhất định. Ở trong khoa học pháp lý hiện đại, những đối tượng đó tuy xuất hiện dưới dạng hình thức mới nhưng bản chất lại chính là quyền tài sản hay nói cách khác thì chúng là tài sản vô hình. Về cơ bản, tài sản vô hình chính là tài sản không có đặc tính vật lý, có thể chuyển giao, khai thác các giá trị sử dụng và trị giá được bằng tiền. Tài sản vô hình bao gồm có Quyền đối vật (vật quyền) và quyền đối nhân (trái quyền) và quyền sở hữu trí tuệ.
Theo đó, nhãn hiệu hàng hóa chính là một nhánh thuộc khái niệm tài sản nên cũng có chung tính chất như vậy, nó cũng sẽ xuất hiện nhiều dạng hình thức nhãn hiệu hàng hóa mới hình thành trong tương lai.
2. Những điều kiện để nhãn hiệu được bảo hộ:
Căn cứ Điều 72 Văn bản hợp nhất 11/VBHN-VPQH 2022 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ thì để nhãn hiệu được bảo hộ thì phải đáp ứng được các điều kiện sau:
2.1. Phải là dấu hiệu nhìn thấy được:
Ở điều kiện này được quy định rõ tại khoản 1 Điều 72 Văn bản hợp nhất 11/VBHN-VPQH 2022 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ, Điều này quy định là dấu hiệu nhìn thấy được ơt dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc là sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc là dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa.
2.2. Phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với các hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác:
Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số các yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc là từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và phải không thuộc các trường hợp bị coi là không có khả năng phân biệt nếu như mà nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Hình và hình hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc ngôn ngữ không thông dụng, trừ trường hợp là các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu trước ngày nộp đơn;
– Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ, tên gọi thông thường của những hàng hóa, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào, hình dạng thông thường của những hàng hóa hoặc một phần của hàng hóa, hình dạng thông thường của bao bì hoặc là vật chứa hàng hóa đã được sử dụng thường xuyên và thừa nhận rộng rãi trước ngày nộp đơn;
– Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, những công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ hoặc là các dấu hiệu làm gia tăng giá trị đáng kể cho hàng hóa, trừ trường hợp là dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước ngày nộp đơn;
– Dấu hiệu mô tả về hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh;
– Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp là dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa là một nhãn hiệu trước ngày nộp đơn hoặc đã được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức mà gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của tổ chức, cá nhân khác mà đã được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở là đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn ở trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả là đơn đăng ký nhãn hiệu đã được nộp theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác mà đã được sử dụng và được thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc là tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của tổ chức, của cá nhân khác đã được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc là tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa được quá ba năm, trừ trường hợp đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nhãn hiệu nổi tiếng của những người khác vào trước ngày nộp đơn đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc là tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho những hàng hóa, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc là việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của những người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho những người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu như việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lý của hàng hóa;
– Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý mà đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu mạnh nếu như dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ ở khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
– Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp của người khác đã hoặc là đang được bảo hộ ở trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp đã có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên giống cây trồng đã hoặc là đang được bảo hộ ở tại Việt Nam nếu dấu hiệu đó đăng ký cho hàng hóa là giống cây trồng cùng loài hoặc thuộc những loài tương tự hoặc sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên gọi, hình ảnh của nhân vật, của hình tượng trong tác phẩm thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả của những người khác đã được biết đến một cách rộng rãi vào trước ngày nộp đơn, trừ trường hợp được phép của chủ sở hữu tác phẩm đó.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 11/VBHN-VPQH 2022 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ.