Nguyên tắc không phân biệt đối xử. Bài tập học kỳ môn Luật Tư pháp quốc tế 9 điểm.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử. Bài tập học kỳ môn Luật Tư pháp quốc tế 9 điểm.
Nguyên tắc cơ bản của một ngành luật có vai trò rất quan trọng trong việc chỉ đạo, định hướng và áp dụng vào toàn bộ các quá trình của cơ chế điều chỉnh pháp luật: xác lập và phát huy hiệu lực của các văn bản QPPL, xuất hiện các quyền và nghĩa vụ trong khuôn khổ mà các QPPL đã dự liệu và định rõ; thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể pháp luật cũng như trong quá trình áp dụng pháp luật… Đồng thời, nguyên tắc của một ngành luật còn có ý nghĩa như là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định tính hợp pháp và hợp lí trong xử sự của các chủ thể, tác động mạnh mẽ tới ý thức pháp luật, văn hóa pháp lí và trật tự pháp luật.
Tương tự như trên, các nguyên tắc cơ bản của TPQT có vai trò rất quan trọng trong việc chỉ đạo, định hướng và áp dụng vào toàn bộ các quá trình của cơ chế điều chỉnh của TPQT. Trong TPQT nói chung, TPQT Việt Nam nói riêng có rất nhiều nguyên tắc như: nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lí giữa các chế độ sở hữu khác nhau, nguyên tắc công nhận quyền miễn trừ của quốc gia… nhưng có một nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc không phân biệt đối xử. Nguyên tắc này có vai trò rất quan trọng trong TPQT, góp phần xóa bỏ các rào cản, loại bỏ sự phân biệt giữa các loại chủ thể khác nhau trong TPQT, thúc đẩy và mở rộng hợp tác giao lưu dân sự, từ đó đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa các nước. Do đó, nguyên tắc không phân biệt đối xử được coi là nguyên tắc cơ bản và phổ biến trong TPQT Việt Nam.
1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử (NT, MFN) là nguyên tắc cơ bản trong TPQT Việt Nam.
Nguyên tắc cơ bản của một ngành luật là những nguyên lí, những tư tưởng chỉ đạo cơ bản có tính chất xuất phát điểm, thể hiện tính toàn diện, linh hoạt và có tính bao quát, quyết định nội dung và hiệu lực của pháp luật. Nguyên tắc không phân biệt đối xử được thể hiện thông qua 2 nguyên tắc là nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia (National treatment -NT) và nguyên tắc Tối huệ quốc (The most favoured nation treatment- MFN).
Hai thuật ngữ National treatment và The most favoured nation treatment xuất hiện khá sớm trong lịch sử NT ( thế kỉ XI); MFN (thế kỉ XVII) và hiện nay được áp dụng phổ biến trong TPQT của nhiều nước.
Cơ sở pháp lí của 2 nguyên tắc này được quy định trong các ĐƯQT mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia ( Ví dụ như trong Hiệp định GATT 1994, trong các Hiệp định tương trợ tư pháp…) hoặc trong pháp luật quốc gia (như trong Hiến pháp1992, Bộ luật Dân sự 2005, Luật Hôn nhân gia đình 2000…).
Nội dung cơ bản của nguyên tắc NT là việc một nước (nước sở tại) dành cho thể nhân, pháp nhân nước ngoài được hưởng các quyền dân sự và lao động cũng như thực hiện các nghĩa vụ ngang hoặc tương đương với những quyền và nghĩa vụ mà công dân nước sở tại đang và sẽ được hưởng trong tương lai. Không hoàn toàn giống với nguyên tắc NT, nội dung cơ bản của nguyên tắc MFN là thể nhân, pháp nhân nước ngoài được hưởng một chế độ mà nước sở tại dành cho thể nhân và pháp nhân nước ngoài của bất kì nước thứ 3 nào đang và sẽ được hưởng trong tương lai.
Việc áp dụng 2 nguyên tắc này có vai trò to lớn trong TPQT, tránh sự phân biệt đối xử, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các thể nhân và pháp nhân nước ngoài với nhau tại nước sở tại (MFN) hay giữa thể nhân, pháp nhân nước ngoài với thể nhân và pháp nhân của nước sở tại (NT). Đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế, nguyên tắc NT, MFN còn làm cho điều kiện cạnh tranh giữa các bạn hàng ngang bằng nhau, không có bất kì sự kì thị, phân biệt đối xử nào làm thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa các nước.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568