Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia? Đây là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên trong số các nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc.
Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
– Đây là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên trong số các nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc: “Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả hội viên”. Nguyên tắc này là xuất phát điểm của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế.
– Ngoài Hiến chương Liên hợp quốc, nguyên tắc này còn được đề cập một cách đầy đủ trong Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia ngày 24/10/1970…1 và một số văn bản pháp lý quốc tế khác.
Mục lục bài viết
1. Sự hình thành nguyên tắc:
– Đây là nguyên tắc xuất hiện rất sớm trong đời sống quốc tế. Nó được hình thành trong thời kỳ loài người chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa, và trở thành nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cũng giống như các nguyên tắc khác trong thời kỳ đó, nguyên tắc này cũng chỉ được dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia nhất định.
Hiến pháp tư sản cũng ghi nhận nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền dân tộc như một tôn chỉ của mình…Tuy nhiên, trên thực tế giai cấp tư sản không hề tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia. Các cuộc đấu tranh đầu thế kỷ 19, chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai…liên tiếp nổ ra nhằm phân chia lại thị trường thế giới đều là những bằng chứng rõ ràng nhất cho sự vi phạm thô bạo nguyên tắc này của các nước tư bản thời bấy giờ.
– Năm 1945, sau khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, với tôn chỉ và mục đích gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế, trong Hiến chương Liên hợp quốc đã ghi nhận “bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia” là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế và đồng thời cũng là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của tổ chức quốc tế rộng rãi này.
– Trong quan hệ quốc tế hiện nay, vấn đề bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia đóng vai trò rất quan trọng trong việc thiết lập, xây dựng cũng như duy trì một trật tự quốc tế trong quan hệ giữa các quốc gia.
2. Nội dung nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia:
*Về khái niệm “Bình đẳng chủ quyền”:
Chủ quyền là thuộc tính chính trị-pháp lý vốn có của quốc gia, thể hiện quyền tối thượng của quốc gia trong lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, mỗi quốc gia có quyền tối thượng về lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài, đồng thời quốc gia được tự do lựa chọn cho mình phương thức thích hợp nhất để thực thi quyền lực trong phạm vi lãnh thổ.
Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia có quyền tự quyết định chính sách đối ngoại của mình mà không có sự áp đặt từ chủ thể khác trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của mọi quốc Điều này có nghĩa là các quốc gia dù lớn hay nhỏ, gia trong cộng đồng quốc tế dù giàu hay nghèo đều có quyền độc lập như nhau trong quan hệ quốc tế.
(Lưu ý rằng, sự “bình đẳng” được đề cập đến trong nguyên tắc này không phải là bình đẳng theo nghĩa “ngang bằng nhau” về tất cả các quyền và nghĩa vụ, mà được hiểu là bình đẳng trong quyền tự quyết mọi vấn đề liên quan đến đối nội và đối ngoại của mỗi quốc gia.
Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế của các quốc gia không giống nhau, do đó Luật quốc tế trong một số trường hợp đã có những quy phạm nhằm trao cho một số quốc gia nhất định những quyền đặc biệt mà các quốc gia khác không có (Ví dụ: quyền phủ quyết của 5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc). Tuy nhiên, việc được hưởng các quyền đặc biệt này bao giờ cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia này phải gánh vác thêm những nghĩa vụ đặc biệt khác).
* Như vậy, bình đẳng về chủ quyền của quốc gia bao gồm các nội dung:
a. Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý;
b. Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ;
c. Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia khác;
d. Sự toàn vẹn lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch;
e. Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa của mình;
f. Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế của mình và tồn tại hoà bình cùng các quốc gia khác.
* Theo nguyên tắc này mỗi quốc gia đều có các quyền bình đẳng sau:
a. Được tôn trọng về quốc thể, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa;
b. Được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình;
c. Được tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế với các lá phiếu có giá trị ngang nhau;
d. Được ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan;
e. Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các quốc gia khác;
f. Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như các quốc gia khác.
3. Ngoại lệ của nguyên tắc:
Cùng xem xét ví dụ: Trong việc thông qua những vấn đề thông thường (không thuộc về thủ tục) 9 lá phiếu này của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc phải có 9/15 phiếu thì nghị quyết sẽ được thông qua là 9 phiếu của bất kỳ thành viên nào của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (không có sự phân biệt giữa lá phiếu của ủy viên không thường trực và ủy viên thường trực).
Tuy nhiên, đối với các vấn đề không thông thường (vấn đề liên quan đến thủ tục), trong 9 phiếu này phải có 5
Quy định trên đây không tạo ra sự bất bình đẳng cũng như vi phạm nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, vì trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các chủ thể Luật quốc tế đã thừa nhận một số trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này đó là:
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Trường hợp các quốc gia tự hạn chế chủv quyền của mình: Đây là trường hợp các quốc gia tự lựa chọn vì lợi ích của chính mình hoặc họ tự hạn chế chủ quyền của mình bằng cách trao quyền cho 1 thể chế khác (như tổ chức quốc tế, quốc gia khác…) được thay mặt mình trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của quốc gia.
Trong trường hợp này, quốc gia đã tự không vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền[nguyện hạn chế chủ quyền của mình giữa các quốc gia. (Ví dụ: – Công quốc Mônacô cho phép Pháp thay mặt họ trong mọi quan hệ đối ngoại, dù nó là một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
– Pháp luật quốc tế thừa nhận các quốc gia có quyền tham gia vào các tổ chức quốc tế, tuy nhiên có một số quốc gia đã tự hạn chế quyền này của mình. Như trường hợp của Thụy sỹ khi tuyến bố mình là quốc gia trung lập vĩnh viễn. Điều này đồng nghĩa với việc họ không được tham gia vào bất kỳ tổ chức quốc tế nào nhằm theo đuổi mục đích quân sự hay các liên minh kinh tế, chính trị trên thế giới…)
Trường hợp các quốc gia bị hạn chế chủ quyền: Trường hợp này chỉ đặt ra đối với các chủ thể có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế, và việc bị hạn chế chủ quyền là một biện pháp trừng phạt từ phía cộng đồng quốc tế đối với quốc gia họ.
Ví dụ: Irắc tấn công Cô-oét năm 1990-đây là một hành vi vi phạm trắng trợn các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Do đó, Hội đồng bảo an đã tiến hành áp dụng một loạt các biện pháp cấm vận về kinh tế đối với Irắc.
4. Sự phát triển của nguyên tắc trong quan hệ quốc tế hiện đại:
– Hiện nay, trong quá trình quốc tế hóa mọi mặt của đời sống quốc tế, sự ra đời của các tổ chức quốc tế phổ cập và khu vực đang ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc phối hợp hoạt động hợp tác của các quốc gia thành viên. Khi tham gia tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên tự nguyện trao cho tổ chức quốc tế một số thẩm quyền thuộc chủ quyền của mình.
Sự trao quyền này không có nghĩa là quốc gia bị hạn chế chủ quyền. Quốc gia khi tự nguyện tham gia tổ chức quốc tế, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên, chịu sự chi phối nhất định của TCQT…các hoạt động này phải được hiểu là quốc gia đang triển khai thực hiện chính chủ quyền của mình.
– Trong không gian quốc tế hiện nay, việc tôn trọng nghiêm chỉnh nguyên tắc này là cơ sở quan trọng để đưa trật tự thế giới phát triển theo xu hướng ngày càng ổn định, hội nhập và tiến bộ hơn.