Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, dân tộc tay. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về nguồn gốc, hình thành và các giai đoạn phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh?
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu cơ bản chính là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc cụ thể về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, cũng chính là quá trình kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành được thắng lợi. Ta nhận thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và toàn thể dân tộc ta.
Khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện cụ thể qua bốn nội dung chủ yếu sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng tại Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta; Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm mục đích chính là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người; Bên cạnh đó thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng vẫn sẽ tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên phía trước để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các yếu tố sau đây:
– Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời và nó được bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu trong quá trình xây dựng đất nước và giữ nước, trong truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái của toàn bộ người dân Việt Nam. Khi tìm hiểu về lịch sử dân tộc ta, trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước vẫn luôn là dòng chảy xuyên suốt có ý nghĩa quan trọng.
Chủ nghĩa yêu nước của nhân dân cũng đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Cũng bởi truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành sức mạnh động lực mạnh mẽ thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm đường cứu nước cho dân tộc ta.
– Tinh hoa văn hoá nhân loại là nguồn gốc hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tinh hoa văn hoá nhân loại sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Đông. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sau khi tìm hiểu đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn là những nhà Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của Người và nhiều tư tưởng của các nhà hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong quá trình tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của những quan điểm Nho giáo này.
Trước khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và nhiều tư tưởng khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới để các tư tưởng đó phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, ta nhận thấy rằng, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây.
– Chủ nghĩa Mác – Lênin:
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh cũng đã từng đặt chân đến nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái và chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
– Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của Hồ Chí Minh và do Người sáng tạo ra dựa trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Từ những trải nghiệm thực tế và việc được tiếp xúc với các nguồn tư tưởng mới đã hình thành tư tưởng của Người.
Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lòng nhân ái và sớm có chí cứu nước, giúp nhân dân được độc lập, tự do.
Với tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo cùng với tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới cũng chính là những đức tính rất dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Các phẩm chất đó cũng dần được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người và từ đó đã tạo ra tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và nó đã trải qua một quá trình lâu dài thông qua khoảng thời gian tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Người.
– Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng từ 1890 đến 1911:
Khi còn trẻ, với những đặc điểm quê hương, gia đình và môi trường sống, Hồ Chí Minh đã tư tích lũy được những hiểu biết và tạo dựng cho mình nhiều phẩm chất đáng quý.
– Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm từ 1911 đến 1920 là giai đoạn bôn ba tìm đường cứu nước:
+ Hồ Chí Minh đã đi tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
+ Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
+ Hồ Chí Minh đã chọn con đường đó là đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
Sự kiện đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.
– Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930):
+ Trong giai đoạn này, chủ tịch Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le Paria nhằm mục đích để có thể tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nước thuộc địa.
+ Hồ Chí Minh tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu vào Đoàn chủ tịch của Hội giữa năm 1923. Sau đó,
+ Hồ Chí Minh về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, cho ra đời Báo thanh niên, cùng với đó là mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động cuối năm 1924.
+ Tháng 02- 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện cụ thể đó là các văn kiện sau: Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện được neue này, cùng với hai tác phẩm Người hoàn thành và xuất bản trước đó là Bản án chế độc thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927) đã đánh dấu cơ bản sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng của Việt Nam.
– Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định của cách mạng Việt Nam (1930 – 1941):
– Đại hội VII Quốc tế cộng sản năm 1935 đã có sự chuyển hướng về sách lược, chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít.
– Năm 1936, Đảng ta đề ra chiến sách mới, phê phán những biểu hiện tả khuynh, cô độc, biệt phái ở giai đoạn trước đây. Từ đây Đảng ta đã trở lại với Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Hồ Chí Minh.
– Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11 năm 1939 cũng đã khẳng định rõ là cần phải đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao để mà giải quyết.
Những diễn biến của quá trình này cũng đã góp phần quan trọng phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
– Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 đến 1969):
+ Đầu năm 1941, chủ tịch Hồ Chí Minh đã về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5 năm 1941), tại hội nghị này đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết.
+ Sau khi giành được chính quyền và chiến thắng lịch sử vào năm 1945, Đảng ta và nhân dân ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
+ Trước khi qua đời chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã để lại di chúc gửi gắm trong đó những tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và toàn nhân loại của Người.
+ Đảng ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta cũng đã khẳng định rằng Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định được vai trò của mình và đây thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển của toàn đất nước ta.