Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ban hành với mục tiêu xây dựng Bộ luật Tố tụng hình sự thực sự khoa học, tiến bộ có tính khả thi cao, là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi tội phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn. Cùng tìm hiểu thêm về nguồn của luật tố tụng hình sự
Mục lục bài viết
1. Nguồn của luật tố tụng hình sự là gì?
1.1. Về nguồn của luật nói chung:
– Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp lí trong thực tế.
– Nguồn của pháp luật bao gồm: nguồn nội dung và nguồn hình thức; nguồn chủ yếu (nguồn cơ bản) và nguồn thứ yếu, tùy vào căn cứ phân biệt. Khi xem xét về nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, cần phải quan tâm cả nguồn nội dung và nguồn hình thức của nó, trong đó, “nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật”; “nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối.
– Các loại nguồn của pháp luật bao gồm: Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật, Điều ước quốc tế, tập quán thương mại, án lệ.
1.2. Về nguồn của tố tụng hình sự:
– Tố tụng hình sự là toàn bộ những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan nhằm tham gia vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan, kịp thời vụ án hình sự, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
– Nguồn của pháp luật hình sự có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp hoặc theo nghĩa nguồn trực tiếp và nguồn gián tiếp.
Nguồn của ngành luật hình sự có thể là bộ luật hình sự, các luật hình sự và các luật có quy phạm pháp luật hình sự. Nhiều quốc gia trên thế giới xây dựng ngành luật hình sự theo hướng có BLHS và các luật có quy phạm pháp luật hình sự. Trong đó, BLHS quy định những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt cũng như quy định những tội danh thông thường; còn các luật có quy phạm pháp luật hình sự quy định tội danh thuộc những lĩnh vực riêng biệt. Các luật này có nội dung chính là điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên biệt nhưng trong đó có một hoặc một số điều luật xác định những hành vi bị coi là vi phạm và tội phạm cũng như quy định các biện pháp xử lí kèm theo, trong đó có hình phạt.
Như vậy, nguồn của tố tụng hình sự bao gồm tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế liên quan đến hình sự.- Nguồn của pháp luật trong tiếng anh là Source of law
– Nguồn của tố tụng hình sự trong tiếng anh là Source of criminal proceedings
– Định nghĩa về nguồn của tố tụng hình sự trong tiếng anh được hiểu là:
The source of criminal proceedings includes all grounds used by competent entities as a basis for the formulation, issuance, and interpretation of law as well as for application to the resolution of legal cases. happening in real life related to criminal.
– Một số từ vựng tiếng anh tiêu biểu liên quan đến cùng lĩnh vực này như:
- a perennial problem: Một vấn đề lặp đi lặp lại
- (to) curb illegalities: Kiểm soát các hành vi phạm tội
- a holistic approach: Một giải pháp toàn diện
- frighten criminals off repeating crimes: Khiến tội phạm sợ mà không tái phạm.(or: Scare sb off doing sth)
- (to) act as a deterrent (against sb/sth): Như một sự ngăn chặn đối với ai/cái gì
- (to) promote educational values: Khuyến khích, thúc đẩy giá trị giáo dục
- (to) tackle crime from the root: Giải quyết vấn đề tội phạm từ gốc rễ
- (to) put sb behind bars: Bỏ tù ai (or: imprison sb / throw sb into jail)
- a crime-fighting solution: Một giải pháp chống tội phạm
- vocational training: Đào tạo nghề
- the grave repercussions: Những hậu quả nghiêm trọng
- (to) refrain from doing sth: Kiềm chế không làm gì
- reformed prisoners: Những tù nhân đã được cải tạo
- (to) dispel any ideas of illegal conduct: Loại bỏ bất kì ý định phạm tội nào
- a preventive measure: Một giải pháp mang tính phòng tránh
2. Phân tích các loại nguồn của luật tố tụng hình sự:
Ở Việt Nam, nguồn của ngành luật hình sự được thể hiện như sau:
– Trước năm 1986 – Thời điểm trước khi Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 có hiệu lực, ngành luật hình sự Việt Nam không có cả bộ luật hình sự lẫn luật hình sự. Văn bản quy phạm pháp luật được coi là nguồn của ngành luật hình sự trong giai đoạn này chỉ bao gồm những văn bản dưới luật, trong đó chủ yếu là các pháp lệnh. Trong giai đoạn này, các pháp lệnh được áp dụng là Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng (năm 1967), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân (năm 1970), Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ (năm 1981), Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (năm 1982) v.v.. Văn bản quy phạm pháp luật quy định được nhiều nhóm tội phạm nhất trong giai đoạn này là Sắc luật số 03 năm 1976. Trong đó, các nhóm tội phạm được quy định một cách đơn giản gồm: Các tội phản cách mạng, các tội xâm phạm tài sản công cộng, các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm, sức khoẻ, tài sản riêng của công dân, các tội kinh tế, các tội chức vụ, hối lộ và các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng. Ngoài các pháp lệnh và sắc luật kể trên thông tư cũng được coi là nguồn của ngành luật hình sự.
– BLHS là sản phẩm cần thiết của việc pháp điển hoá, là nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển trong công tác xây dựng pháp luật. Pháp điển hoá để tạo ra “… một văn bản (quy phạm) pháp luật mới hoặc có hiệu lực pháp lí cao hơn hoặc rộng hơn, tổng quát hơn về phạm vi điều chỉnh, hoàn chỉnh hơn về kĩ thuật lập pháp hoặc đồng thời đạt được tất cả các yêu cầu đó.” Như vậy, pháp điển hoá để tạo cho ngành luật hình sự một BLHS nhưng không phải để “bó gọn” ngành luật này trong một văn bản quy phạm pháp luật. Về mặt lí luận, mục đích của việc xây dựng BLHS không phải để thay thế và loại trừ tất cả các luật và nếu mục đích đó có được đặt ra thì BLHS cũng không thể thực hiện được mục đích đã được đặt ra đó. Điều này đã lí giải tại sao các quốc gia được tác giả nêu ở phần trên đều đã khẳng định không coi BLHS là văn bản quy phạm pháp luật hình sự duy nhất. Khi pháp điển hoá để có sản phẩm là BLHS thì yêu cầu đã được đặt ra là phải đảm bảo cho bộ luật có tính ổn định tương đối. Trong khi đó vẫn phải đảm bảo tính phù hợp, tính toàn diện của ngành luật hình sự.
3. Những lợi ích khi quy định tội phạm và hình phạt trong luật và bộ luật:
Do vậy, việc mở rộng phạm vi cho phép các luật hoặc bộ luật khác cũng có thể có những điều luật về tội phạm và hình phạt bên cạnh các điều luật quy định về xử phạt hành chính là điều hoàn toàn hợp lí. Khi cho phép như vậy sẽ có nhiều điểm lợi như sau:
– Thứ nhất, đảm bảo tính ổn định của BLHS: BLHS sẽ chỉ phải sửa đổi, bổ sung khi cần thay đổi quy định chung về tội phạm và hình phạt cũng như quy định về các tội phạm cụ thể có tính truyền thống và ổn định mà điều này nói chung ít xảy ra, không thể thường xuyên như việc phải bổ sung hay sửa đổi quy định về các tội phạm cụ thể phát sinh cùng với tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế.
– Thứ hai, đảm bảo tính phù hợp, tính toàn diện của ngành luật hình sự: Trong khi việc sửa đổi, bổ sung tội danh hay khung hình phạt trong BLHS không thể thường xuyên và thường chậm vì nhiều lí do khác nhau (kể cả lí do phức tạp về mặt kĩ thuật) thì việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong một luật hay việc ban hành một luật mới là việc làm ít phức tạp hơn và có thể cùng lúc hoặc liên tiếp sửa đổi, bổ sung nhiều luật khác nhau. Do vậy, chúng ta có thể nhanh chóng sửa đổi, bổ sung một cách kịp thời các quy phạm pháp luật hình sự, tránh được tình trạng thực tiễn đấu tranh chống tội phạm phải chờ đợi việc sửa đổi, bổ sung BLHS. Tính đa dạng và phức tạp của tội phạm trong t¹p chÝ luËt häc sè 7/2011 quá trình phát triển và hội nhập quốc tế cũng đòi hỏi nguồn của ngành luật hình sự phải đa dạng, không thể bó hẹp trong BLHS.
– Thứ ba, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật: Khi nhu cầu phát triển của một lĩnh vực kinh tế – xã hội nào đó đòi hỏi phải có một luật hay cần sửa đổi, bổ sung một luật đã có chúng ta đồng thời thể hiện ba nội dung khác nhau nhưng thống nhất với nhau trong cùng một luật. Trong cùng một luật có cả ba loại quy phạm pháp luật. Đó là:
+ Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc từng lĩnh vực kinh tế – xã hội như lĩnh vực tài chính, tiền tệ, lĩnh vực chứng khoán, lĩnh vực đất đai, lĩnh vực công nghệ thông tin, v.v..;
+ Các quy phạm pháp luật về vi phạm hành chính và
+ Các quy phạm pháp luật hình sự.
Ba nhóm nội dung trên, khi được thể hiện trong cùng một luật sẽ có tính thống nhất cao. Quy phạm về vi phạm hành chính và quy phạm pháp luật hình sự được xây dựng dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đồng thời các quy phạm về vi phạm hành chính và quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là các quy phạm bảo vệ có mục đích đảm bảo tính hiệu lực của các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Giữa quy phạm về vi phạm hành chính và quy phạm pháp luật hình sự cũng có mối quan hệ rất gắn bó với nhau vì đều quy định về các hành vi vi phạm quy phạm điều chỉnh nhưng ở các mức độ khác nhau – mức độ vi phạm và mức độ tội phạm. Việc thể hiện cả ba loại quy phạm này trong một luật không chỉ bảo đảm tính thống nhất mà còn đảm bảo chất lượng của các quy phạm.
– Thứ tư, đảm bảo điều kiện cho việc pháp điển hoá: Pháp điển hoá là một quá trình; các quy phạm pháp luật được pháp điển hoá khi đã được kiểm nghiệm. Việc xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự trong các luật là bước chuẩn bị cho việc hệ thống hoá và tiếp theo là pháp điển hoá sau này khi có đủ điều kiện. Như vậy, giữa pháp điển hoá và mở rộng phạm vi nguồn của pháp luật hình sự không mâu thuẫn mà hoàn toàn thống nhất với nhau.
Việc thay đổi quan niệm về nguồn của pháp luật hình sự theo hướng trên sẽ dẫn đến hai sự thay đổi chính.
Đó là thay đổi trong một số quy định của BLHS và thay đổi trong cấu trúc của các luật khác có nội dung liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự.
Thay đổi trong một số quy định của BLHS: Các điều luật trong BLHS có nội dung là sự giới hạn việc quy định tội phạm chỉ có thể trong BLHS đều phải được sửa theo hướng cho phép các luật khác cũng có thể quy định tội phạm. Thay đổi trong cấu trúc của các luật khác: Các luật của các lĩnh vực khác nhau khi được xây dựng cần có 1 chương về xử lí vi phạm và tội phạm nếu xét thấy có khả năng xảy ra vi phạm cần bị xử phạt hành chính cũng như xét thấy có khả năng xảy ra vi phạm ở mức độ tội phạm mà những tội phạm đó không thuộc tội phạm thông thường đã được pháp điển hoá trong Bộ luật hình sự.