Sử dụng rượu bia sẽ khiến cho con người mất đi một phần hoặc toàn bộ nhận thức đối với hành vi của mình. Người sử dụng rượu bia có thể gây ra nhiều hậu quả khôn lường. Vậy những người say rượu có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không?
Mục lục bài viết
1. Người say rượu có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Bộ luật hình sự năm 2015 hiện nay đã đưa ra điều luật về người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi do sử dụng rượu bia. Căn cứ theo quy định tại Điều 13 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định, người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do người phạm tội đó sử dụng các loại rượu bia hoặc sử dụng các chất kích thích mạnh khác thì người đó vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều luật và các tội danh tương ứng, phù hợp với hậu quả mà họ gây ra trên thực tế.
Theo đó thì có thể nói, theo quy định hoàn chỉnh của pháp luật hình sự hiện hành, có quy định cụ thể về năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của chủ thể có sử dụng các chất kích thích gây tác động mạnh đến hệ thần kinh và điều khiển bộ não, trong đó có hành vi sử dụng rượu bia. Những chủ thể sử dụng rượu bia đang trong tình trạng mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, hay còn được gọi là rơi vào tình trạng “say rượu” Khi thực hiện các hoạt động đe dọa đến quan hệ xã hội thì vẫn sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật, thậm chí là vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người say rượu bia thông thường sẽ bị rơi vào trạng thái mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi ở tùy mức độ khác nhau. Có người say rượu họ sẽ mất hoàn toàn khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, tuy nhiên cũng có người say rượu họ chỉ mất một phần khả năng nhận thức dẫn đến quá trình điều khiển hành vi không được chính xác, tuy nhiên việc họ bị mất hoặc bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi trong trường hợp này hoàn toàn do lỗi của họ gây nên, họ tự mình để cho bản thân rơi vào hoàn cảnh đó mặc dù họ có quyền lựa chọn sử dụng các chất kích thích hoặc không sử dụng các chất kích thích. Vì vậy cho nên, họ được coi là người có lỗi đối với tình trạng say rượu của mình, họ vẫn sẽ được coi là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự khi họ thực hiện các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Vì thế người phạm tội trong tình trạng say rượu bia sẽ không được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vì vậy họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả mà mình gây ra.
So với quy định về người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi căn cứ theo quy định tại Điều 23 của Bộ luật dân sự năm 2015, thì có quy định cụ thể như sau:
– Người thanh niên do tình trạng thể chất hoặc do tình trạng về tinh thần mà họ không có đầy đủ khả năng để nhận thức và làm chủ hành vi của mình, tuy nhiên những người đó cũng chưa đến mức bị mất hoàn toàn năng lực điều khiển hành vi dân sự thì theo yêu cầu của những người này hoặc yêu cầu của những người có quyền lợi liên quan, hoặc theo yêu cầu của các cơ quan và các tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần của chúng ta có thẩm quyền, tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố những lời này là những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, sau đó tiếp tục chỉ định người giám hộ cho họ và xác định quyền, nghĩa vụ của những người giám hộ trong quá trình thực hiện hoạt động giám hộ cho những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi;
– Khi không còn đầy đủ căn cứ để trên bố một người nào đó có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính ở đó họ yêu cầu của những người có quyền lợi liên quan, yêu cầu của các cơ quan và các tổ chức hữu quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án hoàn toàn có thể ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
Như vậy, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật về dân sự hoàn toàn khác với những người say rượu không có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi. Những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật dân sự là do nguyên nhân khách quan, còn những người sử dụng rượu bia phạm tội đó là do nguyên nhân chủ quan. Họ nhận thức được rằng tác hại có thể xảy ra nếu như lạm dụng quá mức rượu bia, tuy nhiên họ vẫn đặt bản thân mình vào hoàn cảnh say rượu, thậm chí có người còn lợi dụng tình trạng say rượu để thực hiện các hành vi phạm tội một cách dứt khoát hơn.
Vì vậy, người say rượu phạm tội vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Người phạm tội trong tình trạng say rượu có được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ bao gồm các tình tiết như sau:
– Người phạm tội đã thực hiện hành vi ngăn chặn, giảm bớt tác hại của tội phạm trên thực tế trong phạm vi khả năng của mình;
– Người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, có hành vi khắc phục hậu quả;
– Người phạm tội phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi thực hiện hoạt động bắt giữ người phạm tội của cơ quan chức năng có thẩm quyền;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần, nguyên nhân dẫn đến vấn đề kích động về tinh thần trong trường hợp này là do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội xuất phát vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tuy nhiên hoàn cảnh khó khăn đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra;
– Phạm tội tuy nhiên chưa gây ra hậu quả trên thực tế, hoặc có gây ra hậu quả nhưng hậu quả thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức, dẫn đến khả năng không thể chống cự và không có sự lựa chọn nào khác;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức, trường hợp hạn chế khả năng đó không phải do lỗi của người phạm tội gây ra;
– Phạm tội do bị lạc hậu, người phạm tội được xác định là phụ nữ có thai, người phạm tội được xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội được xác định là người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật;
– Người phạm tội tự thú, người phạm tội là người mắc các bệnh dẫn đến khả năng hạn chế nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội đã có công chuộc tội, giúp đỡ tích cực cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình phát hiện và điều tra tội phạm;
– Người phạm tội có hành vi thành khẩn khai báo tại cơ quan có thẩm quyền, ăn năn hối cải, có thành tích xuất sắc trong quá trình sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác;
– Người phạm tội có mối quan hệ là cha mẹ, vợ chồng, con của các đối tượng là liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Theo đó thì có thể nói, người phạm tội trong tình trạng say rượu không thuộc một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo như phân tích nêu trên.
3. Người phạm tội trong tình trạng say rượu được miễn trách nhiệm hình sự khi nào?
Pháp luật hiện nay có quy định cụ thể về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. Theo đó, người phạm tội trong tình trạng say rượu theo như phân tích nêu trên vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều luật tương ứng khi thực hiện các hành vi phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến khách thể do pháp luật hình sự bảo vệ, tuy nhiên vẫn sẽ được miễn trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn đầy đủ các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự hiện nay đang được quy định cụ thể tại Điều 29 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:
– Người phạm tội theo quy định của pháp luật sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ cơ bản sau đây:
+ Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của pháp luật, do có sự xuất hiện hoặc có sự thay đổi về chính sách pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội;
+ Khi có quyết định đại xá bởi chủ thể có thẩm quyền.
– Người phạm tội có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ cơ bản như sau:
+ Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử do biến chuyển của tình hình, mà người phạm tội không còn có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội;
+ Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố hoặc xét xử, người phạm tội mắc các chứng bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội;
+ Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác trên thực tế, người phạm tội đã có hành vi tự thú, khai rõ và trình báo rõ ràng về sự việc, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình phát hiện và điều tra tội phạm của các lực lượng chức năng, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, có hành vi lập công lớn tại cơ quan có thẩm quyền, có công hiến đặc biệt và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền và xã hội thừa nhận.
– Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng xuất phát từ lỗi vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, đã có hành vi khắc phục hậu quả trong phạm vi cần thiết, được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện bãi nại trên thực tế, những người đó đã có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này người phạm tội cũng có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).