Trong quá trình làm việc, người lao động gây ra tai nạn là vấn đề không thể tránh khỏi, tai nạn đó có thể xuất phát từ lỗi của người lao động hoặc không phải lỗi của người lao động. Vậy người lao động gây ra tai nạn, công ty có phải bồi thường hay không?
Mục lục bài viết
1. Người lao động gây tai nạn, công ty có phải bồi thường không?
Pháp luật hiện nay đã có quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường của người sử dụng lao động khi người lao động gây ra tai nạn trong quá trình làm việc. Căn cứ theo quy định tại Điều 38 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015 và được hướng dẫn cụ thể tại Điều 4 của Thông tư số 28/2021/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động về chế độ đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thì có thể nói, khi người lao động gây ra tai nạn, kể cả khi tai nạn đó do lỗi của người lao động thì người sử dụng lao động vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên mức độ bồi thường của người sử dụng lao động sẽ phụ thuộc vào mức độ lỗi của người lao động khi xảy ra tai nạn. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp người lao động bị tai nạn hoàn toàn xuất phát từ lỗi của chính người lao động thì khi đó người sử dụng lao động sẽ phải bồi thường cho người lao động với mức độ như sau:
– Người sử dụng lao động phải bồi thường ít nhất 12 tháng tiền lương cho những đối tượng được xác định là người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc bồi thường cho thân nhân của người lao động bị chết do bị tai nạn lao động;
– Người sử dụng lao động sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 0.6 tháng tiền lương đối với những đối tượng được xác định là người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%, những đối tượng được xác định là người lao động nếu họ bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80% theo công thức dưới đây:
Ttc = Tbt x 0,4
Trong đó:
+ Ttc: Mức trợ cấp cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% trở lên (đơn vị tính: tháng tiền lương);
+ Tbt: Mức bồi thường cho người bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% trở lên (đơn vị tính: tháng tiền lương).
Thứ hai, trong trường hợp người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của người lao động, thì người sử dụng lao động sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người lao động với mức độ như sau:
– Người sử dụng lao động phải tiến hành hoạt động bồi thường ít nhất bằng 30 tháng tiền lương cho người lao động được xác định là những đối tượng bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc tiến hành hoạt động bồi thường cho thân nhân của người lao động bị chết do tai nạn lao động hoặc do bệnh nghề nghiệp trong quá trình lao động;
– Người sử dụng lao động sẽ phải bồi thường ít nhất bằng 1.5 tháng tiền lương đối với những đối tượng được xác định là người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%, những đối tượng được xác định là người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80% thì cứ tăng 1% sẽ được cộng thêm 0.4 tháng tiền lương theo công thức như sau:
Tbt = 1,5 + {(a – 10) x 0,4}. Trong đó:
+ Tbt: Mức bồi thường cho người bị suy giảm khả năng lao động từ 11% trở lên (đơn vị tính: tháng tiền lương);
+ 1,5: Mức bồi thường khi suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%;
+ a: Mức phần trăm suy giảm khả năng lao động của người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
+ 0,4: Hệ số bồi thường khi suy giảm khả năng lao động tăng 1%.
2. Quy định về trách nhiệm bồi thường của người sử dụng lao động:
Mặc dù không được hưởng chế độ tai nạn lao động theo quy định của pháp luật, nhưng căn cứ theo quy định tại Điều 38 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015 thì có thể nói, khi người lao động bị tai nạn dẫn đến suy giảm khả năng lao động thì người lao động vẫn sẽ được hưởng bồi thường từ phía người sử dụng lao động theo như phân tích ở trên. Cụ thể thì trách nhiệm của người sử dụng lao động được quy định như sau:
– Có trách nhiệm trong việc kịp thời sơ cứu cấp cứu cho những đối tượng là người lao động bị tai nạn lao động trong quá trình làm việc và phải tập ứng chi phí sơ cứu và chi phí cấp cứu, phải tập ứng chi phí điều trị cho người lao động bị tai nạn đó;
– Có nghĩa vụ thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu và cấp cứu cho đến khi người lao động điều trị ổn định, phần thanh toán này sẽ bao gồm chi phí chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do cơ quan bảo hiểm y tế chi trả cho người lao động khi họ là những đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, phải chi trả các khoản phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp bị kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi tiến hành hoạt động giám định mức suy giảm khả năng lao động tại hội đồng giám định y khoa theo quy định của pháp luật, thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với những đối tượng được xác định là người lao động không tham gia bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật;
– Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động phải nghỉ việc trong thời gian điều trị và phục hồi chức năng lao động trên thực tế;
– Bồi thường cho những đối tượng là người lao động bị tai nạn lao động nhưng không hoàn toàn do lỗi của mình gây ra theo quy định ở trên;
– Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của chính người lao động đó gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức tiền lương theo quy định của pháp luật với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng;
– Thực hiện hoạt động bồi thường và trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động trong khoảng thời gian 05 ngày theo quy định của pháp luật đối tính kể từ ngày có kết luận giám định của hội đồng y khoa về mức độ suy giảm khả năng lao động, hoặc kể từ ngày chủ thể có thẩm quyền đó là Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ việc tai nạn lao động chết người;
– Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe của người lao động bị tai nạn ở đậu sau quá trình điều trị và phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc tại công ty;
– Có trách nhiệm lập hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao động từ quỹ bảo hiểm tai nạn lao động theo quy định của pháp luật.
Trên đây là toàn bộ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động, trong đó có trách nhiệm bồi thường của người sử dụng lao động khi người lao động xảy ra tai nạn.
3. Những người hợp người lao động phải bồi thường thiệt hại cho công ty:
Căn cứ theo quy định tại Điều 129 của
– Người lao động làm hư hỏng dụng cụ và làm hư hỏng các thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động và cho doanh nghiệp thì người lao động phải tiến hành hoạt động bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc bồi thường theo
– Trong trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng với lỗi vô ý do sơ suất, giá trị thiệt hại không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc thì người lao động sẽ phải bồi thường cho người sử dụng lao động nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hàng tháng vào mức lương theo quy định của
– Người lao động làm mất dụng cụ lao động và làm mất thiết bị của doanh nghiệp, người lao động là mất tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động quản lý, Làm tiêu hao vật tư quá mức cho phép gây thiệt hại cho người sử dụng lao động, thì người lao động phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo giá thị trường hoặc bồi thường theo
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Lao động năm 2019;
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015;
– Thông tư số 28/2021/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động về chế độ đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.