Việc người làm chứng có quyền từ chối khai báo là một vấn đề quan trọng trong quá trình điều tra và xét xử các vụ việc pháp lý, đặc biệt là trong các vụ án hình sự, dân sự hay hành chính. Vậy, người làm chứng có quyền từ chối khai báo không? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới dây.
Mục lục bài viết
1. Người làm chứng có quyền từ chối khai báo không?
Theo quy định tại Điều 383 Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH năm 2017 về Bộ luật Hình sự, hành vi từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản, hoặc từ chối cung cấp tài liệu là một hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nếu không có lý do chính đáng. Những người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, hay người dịch thuật nếu không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 19 của Bộ luật hình sự mà từ chối thực hiện nhiệm vụ của mình, có thể bị xử lý hình sự với các hình phạt cụ thể.
Cụ thể, nếu một người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, hoặc người dịch thuật cố tình không thực hiện nghĩa vụ khai báo hoặc từ chối cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu mức phạt cảnh cáo hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ với thời gian lên đến 01 năm. Trong một số trường hợp nghiêm trọng hơn, người vi phạm có thể bị phạt tù với thời hạn từ 03 tháng đến 01 năm.
Ngoài ra, nếu người phạm tội này vi phạm quy định thì có thể bị áp dụng thêm các hình phạt bổ sung. Cụ thể, họ có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một số công việc nhất định trong khoảng thời gian từ 01 năm đến 05 năm. Điều này giúp ngăn chặn họ có thể tiếp tục vi phạm các quy định pháp luật trong lĩnh vực chuyên môn hoặc công việc của mình.
Đặc biệt, theo quy định tại khoản 2 Điều 19
Như vậy, theo quy định trên, nếu người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản hoặc người dịch thuật từ chối thực hiện nghĩa vụ khai báo mà không có lý do chính đáng, họ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự với các hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ cho đến án phạt tù. Tuy nhiên, nếu người làm chứng là thân nhân của người phạm tội thì sẽ được miễn trách nhiệm hình sự trong các trường hợp không tố giác tội phạm, trừ khi liên quan đến các tội danh đặc biệt nghiêm trọng.
2. Ngoài nghĩa vụ khai báo thì người làm chứng có những nghĩa vụ khác gì?
Theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 66 Văn bản hợp nhất 05/VBHN-VPQH năm 2021 về Bộ luật Tố tụng Hình sự, người làm chứng có những nghĩa vụ cụ thể phải tuân thủ trong quá trình tham gia vào các hoạt động tố tụng. Đây là các quy định nhằm đảm bảo tính minh bạch và trung thực trong việc cung cấp thông tin để phục vụ cho quá trình điều tra, khởi tố, xét xử một vụ án hình sự.
-
Thứ nhất, người làm chứng có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Điều này có nghĩa là khi nhận được giấy triệu tập từ các cơ quan như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, hoặc tòa án, người làm chứng bắt buộc phải tham gia và không thể tự ý vắng mặt. Tuy nhiên, nếu vì những lý do bất khả kháng hoặc do những trở ngại khách quan như bệnh tật, thiên tai, hoặc các sự kiện nằm ngoài khả năng kiểm soát của cá nhân, người làm chứng có thể vắng mặt mà không bị xử lý. Trong trường hợp cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng, hoặc nếu việc vắng mặt của họ gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án như việc khởi tố, điều tra, truy tố hoặc xét xử, thì cơ quan có thẩm quyền có quyền thực hiện biện pháp dẫn giải. Đây là biện pháp cưỡng chế được áp dụng nhằm đảm bảo rằng người làm chứng không thể trốn tránh trách nhiệm của mình trong quá trình tố tụng.
-
Thứ hai, nghĩa vụ quan trọng của người làm chứng là phải trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến vụ án. Điều này bao gồm việc cung cấp các thông tin về nguồn tin tội phạm, các tình tiết của vụ án và lý do mà họ biết được những thông tin này. Yêu cầu về tính trung thực là rất quan trọng, vì lời khai của người làm chứng có thể đóng vai trò quyết định trong việc xác định sự thật của vụ án. Người làm chứng phải khai báo đầy đủ và không che giấu bất kỳ tình tiết nào liên quan đến sự việc đang được điều tra, xét xử.
-
Thứ ba, theo khoản 5 Điều 66 Bộ luật Tố tụng Hình sự, nếu người làm chứng cố tình khai báo gian dối, tức là cung cấp thông tin sai sự thật hoặc có hành vi từ chối khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc các trở ngại khách quan thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Việc khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo có thể làm cản trở quá trình tố tụng, gây ra những hậu quả nghiêm trọng và vì vậy pháp luật quy định hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi này.
Như vậy, người làm chứng có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ các quy định tại khoản 4 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự, bao gồm việc phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan tố tụng và trình bày trung thực mọi tình tiết liên quan đến vụ án. Nếu vi phạm những nghĩa vụ này mà không có lý do chính đáng, người làm chứng có thể đối mặt với các biện pháp xử lý nghiêm khắc.
3. Người làm chứng phạm tội từ chối khai báo sau khi chấp hành xong hình phạt thì có đương nhiên được xóa án tích không?
Theo quy định tại Điều 70 Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH năm 2017 về Bộ luật Hình sự, vấn đề đương nhiên được xóa án tích là một quy định nhằm khôi phục quyền lợi của người bị kết án sau khi họ đã chấp hành xong hình phạt, góp phần giúp họ tái hòa nhập xã hội. Quy định này áp dụng cho những người bị kết án không phải về các tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI (các tội phạm chiến tranh) của Bộ luật Hình sự. Như vậy, người bị kết án nếu đã chấp hành xong hình phạt chính, án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều này sẽ được hưởng quyền đương nhiên xóa án tích.
-
Thứ nhất, đối với người bị kết án, điều kiện để được xóa án tích sẽ phụ thuộc vào việc họ có chấp hành xong các hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án hay không. Đồng thời, sau khi đã chấp hành xong, họ không được phạm thêm tội mới trong khoảng thời gian được quy định tại khoản 2 của Điều 70 Bộ luật Hình sự.
Cụ thể, thời hạn để được xóa án tích phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hình phạt chính mà họ đã phải chịu. Nếu người đó bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, hoặc cải tạo không giam giữ, hoặc bị phạt tù nhưng được hưởng án treo, thì thời gian chờ để được xóa án tích là 01 năm. Đối với người bị phạt tù lên đến 05 năm, thì thời gian chờ là 02 năm. Nếu bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm, thời hạn để được xóa án tích là 03 năm. Cuối cùng, đối với những người bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân, hoặc tử hình nhưng đã được giảm án, thời gian để được xóa án tích sẽ là 05 năm.
-
Thứ hai, trong trường hợp người bị kết án đang phải chấp hành các hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc thực hiện một công việc nhất định, hoặc bị tước một số quyền công dân, thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ kết thúc khi họ hoàn thành xong tất cả các hình phạt bổ sung này.
Như vậy, nếu một người làm chứng phạm tội từ chối khai báo theo quy định tại Điều 383 Bộ luật Hình sự, sau khi đã chấp hành xong hình phạt và không thực hiện thêm bất kỳ hành vi phạm tội nào trong khoảng thời gian 01 năm (đối với trường hợp bị phạt cảnh cáo hoặc án treo) hoặc 02 năm (đối với trường hợp bị phạt tù lên đến 05 năm), thì người này sẽ đương nhiên được xóa án tích.
THAM KHẢO THÊM: