Quyền đặt tên cho tác phẩm dịch? Quyền tác giả? Một số quy định pháp luật về quyền tác giả?
Theo báo điện tử của bộ văn hóa thể thao du lịch thì tại Hội thảo Quốc gia về vai trò của quyền tác giả đối với sự phát triển kinh tế và văn hóa vừa diễn ra tại Hà Nội, ngài Brian Nicholas Garnett – Chủ tịch Interight Co Limited cho biết, sự đóng góp của công nghiệp sáng tạo cho GDP theo từng quốc gia có sự khác biệt đáng kể, từ trên dưới 2% ở Brunei đến 10% ở Hoa Kỳ. Giá trị đóng góp cho GDP bình quân và trung bình tương ứng với 5,48% và 4,83%… Đóng góp của công nghiệp bản quyền đối với lao động trong nước cao hơn đóng góp GDP, với mức trung bình là 5,34% và bình quân 4,91%. Gần 3/4 các nước có đóng góp từ công nghiệp bản quyền chiếm khoảng 4% và 7% Lao động trong nước. Ngành công nghiệp sáng tạo ngày càng có đóng góp lớn về GDP và việc làm cho nền kinh tế thế giới. Trong nền kinh tế sáng tạo đó, vấn đề bản quyền, trong đó có quyền tác giả và quyền liên quan giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vậy liệu rằng là các dịch giả người dịch tác phẩm có được đặt tên mới cho tác phẩm mình dịch, liệu có sự sáng tạo ở đây?
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Căn cứ pháp lý:
–
– Nghị định 22/2018/NĐ-CP về hướng dẫn
Mục lục bài viết
1. Quyền đặt tên cho tác phẩm dịch:
Theo quy định tại
– Đặt tên cho tác phẩm;
– Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả;
– Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
– Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định: Quyền đặt tên cho tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ thì quyền này không áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.
Như vậy có thể thấy, quyền đặt tên cho tác phẩm dịch không áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Do đó dịch giả của tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác không có quyền đặt tên cho tác phẩm dịch của họ.
2. Quyền tác giả là gì?
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Trong đó, đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, ghi hình, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa, chương trình phát
Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản và được quy định tại Điều 19 và Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009, 2019.
– Quyền tài sản, bao gồm các quyền sau đây:
+ Làm tác phẩm phái sinh;
+ Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện vô tuyến, hữu tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
+ Nhập khẩu hay phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
+ Sao chép tác phẩm;
+ Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
+ Cho thuê bản sao hoặc bản gốc tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính;
– Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:
+ Đặt tên cho tác phẩm;
+ Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
+ Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác cắt xén, sửa chữa hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả;
+ Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được sử dụng công bố.
3. Một số quy định pháp luật về quyền tác giả:
3.1. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả:
Thứ nhất, tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ.
– Tác phẩm văn học, sách giáo khoa, khoa học, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
– Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
– Tác phẩm báo chí, sân khấu, âm nhạc;
– Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
– Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng (Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2023 có hiệu lực ngày 01/01/2023 sẽ sửa đổi “Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng” thành “Tác phẩm mỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng”);
– Tác phẩm nhiếp ảnh;
– Tác phẩm kiến trúc;
– Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
– Bản họa đồ, bản đồ, sơ đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
– Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
Thứ hai, tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại mục thứ nhất nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
Các tác phẩm được bảo hộ quy định tại mục thứ nhất và thứ 2 phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
Ngoài ra luật sở hữu trí tuệ qui định các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả:
– Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin;
– Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu;
– Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó;
3.2. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả được pháp luật bảo vệ:
Một, đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Hai, đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình.
Ba, đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết
Bốn, tác phẩm không thuộc loại hình tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh thì có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
Các đối tượng có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả được quy định như sau:
(1) Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019) cụ thể:
– Chủ sở hữu quyền tác giả là tác giả;
– Chủ sở hữu quyền tác giả là các đồng tác giả;
– Chủ sở hữu quyền tác giả là Nhà nước;
– Chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế;
– Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả;
– Chủ sở hữu quyền tác giả là người được chuyển giao quyền;
(2) Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại (1) bao gồm:
– Tổ chức cá nhân Việt Nam;
– Cá nhân tổ chức nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác;
– Tổ chức cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Hiện nay, nước ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về quyền liên quan quyền tác giả bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế đáp ứng thực hiện cam kết bảo hộ cho tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan, chủ sở hữu quyền tác giả của Việt Nam và các nước thành viên của các điều ước quốc tế. Tuy vậy, kết quả thực thi quyền tác giả, quyền liên quan trên thực tế tại nước ta vẫn chưa như mong muốn. Tình trạng xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan vẫn diễn ra trên nhiều lĩnh vực như: sách truyện, báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, phát thanh, âm nhạc, xuất bản, sân khấu, truyền hình… đặc biệt là những vi phạm quyền tác giả,quyền liên quan trên môi trường mạng internet.