Trong quy định pháp luật dân sự có quy định về quyền và nghĩa vụ bao gồm: nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, nghĩa vụ giao vật, nghĩa vụ chịu phạt, nghĩa vụ trả tiền, nghĩa vụ giao vật,.... Vậy nghĩa vụ giao vật là gì? Thực hiện nghĩa vụ giao vật trong quan hệ dân sự như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Nghĩa vụ giao vật là gì?
Trước khi tìm hiểu về một nghĩa vụ cụ thể trong Bộ luật Dân sự thì chúng ta cần tìm hiểu qua về nghĩa vụ được quy định theo pháp luật này là gì? Do đó, theo như quy định tại Điều 274
Tuy rằng pháp luật Dân sự không có quy định chi tiết về khái niệm nghĩa vụ giao vật, nhưng dựa trên phần quy định được nêu ra ở trên về khái niệm của nghĩa vụ và theo quy định tại điều 279 Bộ Luật dân sự 2015 về nội dung của nghĩa vụ giao vật thì khi thực hiện nghĩa vụ giao vật bên có nghĩa vụ giao vật phải bảo quản, giữ gìn vật đó đến khi giao. Do đó, Nghĩa vụ giao vật có thể được hiểu một cách đơn là việc mà một hoạc nhiều chủ thể phải chuyển giao vật cho một hoặc nhiều chủ thể khác nhưng trước đó thì bên có nghĩa vụ giao vật phải bảo quản, giữ gìn vật đó đến khi giao.
Bên cạnh đó thì theo như quy định tại khoản 2 Điều 279 có quy định về việc giao vật như sau: “khi vật phải giao là vật đặc định thì bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó và đúng tình trạng như cam kết, nếu là vật cùng loại thì phải giao đúng số lượng và chất lượng như đã thỏa thuận và nếu không có thỏa thuận thì phải giao vật đó với chất lượng trung bình, nếu là vật đông bộ thì phải giao cho đồng bộ”. Trong quy định được nêu ở trên có nhắc đến các loại vật trong đó có vật đặc định và vật cũng loại, hai khái niệm này được hiểu trong quy định này như thế nào?
Thứ nhất là đối với vật đặc định đươc quy định trong pháp luật dân sự là vật phân biệt được với vật khác bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Bởi lẽ đó, khi giao vật thì bên có nghĩa vụ chỉ được coi là thực hiện đúng nghĩa vụ khi giao đúng vật đó. Trường hợp nghĩa vụ giao vật đặc định không được thực hiện thì bên có nghĩa vụ bị coi là vi phạm nghĩa vụ và phải chịu trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự của bên có nghĩa vụ ở đây là việc người có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ nếu vật đặc định vẫn còn và bên có quyền yêu cầu hoặc người này phải có trách nhiệm thanh toán giá trị của vật nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng. Giá trị của vật sẽ được tính theo thỏa thuận của các bên hoặc do cơ quan có thẩm quyền xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết tranh chấp.
Thứ hai là đối với vật cùng loại được quy định trong pháp luật dân sự là vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường. Những vật cùng loại có thể thay thể cho nhau nên khi chuyển giao vật cùng loại các bên chủ yếu quan tâm đến chất lượng, số lượng, chủng loại vật.
2. Thực hiện nghĩa vụ giao vật trong quan hệ dân sự:
Đối tượng của quan hệ nghĩa vụ rất rộng và đa dạng. Theo đó, tùy thuộc vào đối tượng cụ thể của từng quan hệ, mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng với đối tượng đó. Đối với đối tượng là vật, thì việc thực hiện nghĩa vụ phải được tiến hành theo quy định tại Điều 279
“Điều 279. Thực hiện nghĩa vụ giao vật
1. Bên có nghĩa vụ giao vật phải bảo quản, giữ gìn vật cho đến khi giao.
2. Khi vật phải giao là vật đặc định thì bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó và đúng tình trạng như đã cam kết; nếu là vật cùng loại thì phải giao đúng số lượng và chất lượng như đã thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận về chất lượng thì phải giao vật đó với chất lượng trung bình; nếu là vật đồng bộ thì phải giao đồng bộ.
3. Bên có nghĩa vụ phải chịu mọi chi phí về việc giao vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”
Nghĩa vụ là việc mà trong một trường hợp cụ thể xảy ra, trong đó có một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá ( có thể gọi là tài sản), thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Trong đó, việc thực hiện nghĩa vụ giao vật được thực hiện như sau:
Thực hiện đúng hợp đồng là một trong các nguyên tắc khi các bên thực hiện hợp đồng. Thực hiện không đúng nghĩa vụ chuyển giao tài sản là việc chuyển giao tài sản không đúng số lượng, không đúng phương thức, không đúng địa điểm, do chuyển giao vật không đồng bộ, không đúng chủng loại…Khi có hành vi vi phạm nói trên, bên có nghĩa vụ có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ giao vật như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ cũng được coi là thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Nghĩa vụ vẫn được thực hiện trong thời hạn do các bên thỏa thuận, tuy nhiên, nghĩa vụ đó đã không được thực hiện một cách hoàn chỉnh. Theo nguyên tắc này, đối tượng của hợp đồng (vật, tiền, giấy tờ có giá…) do bên có nghĩa vụ chuyển giao hoặc thực hiện phải đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật và sự thỏa thuận của các bên về chất lượng, số lượng cũng như các tiêu chuẩn khác. Đối tượng của hợp đồng phải là đối tượng có thể thực hiện được. Nếu đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được thì ngay từ khi ký kết hợp đồng đã vô hiệu, và việc xác định có thực hiện đúng đối tượng của hợp đồng hay không không còn ý nghĩa đối với các bên giao kết.
3. Trách nhiệm khi giao vật không đúng thoả thuận như thế nào?
Trên cơ sở quy định tại Khoản 1 Điều 438 Bộ luật dân sự 2015 quy định về trách nhiệm do giao vật không đồng bộ đã có quy định về vấn đề trong
Ngoài ra, tại điều này cũng có quy định về vấn đề trong hợp đồng khi trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng đã thỏa thuận, thì đây có thể coi là trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ (bên bán mới thực hiện một phần nghĩa vụ đã thỏa thuận), bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao tiếp số lượng và bồi thường thiệt hại. Nếu bên mua không muốn nhận tiếp số lượng hàng còn thiếu, thì bên bán bị coi là không thực hiện đúng nghĩa vụ giao vật và phải bồi thường thiệt hại. Đối với nghĩa vụ chuyển giao vật đồng bộ cũng vậy, nếu như bên có nghĩa vụ không chuyển giao đúng vật đồng bộ dẫn đến mực đích sử dụng của vật không đạt được thì bên có nghĩa vụ đó cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm nghĩa vụ chuyển giao vật.
Đối với việc chuyển giao vật không đúng chủng loại được quy định tại Điều 439 Bộ luật dân sự 2015 thì bên có nghĩa vụ không được lấy vật khác thay thế cho vật đã thỏa thuận. Ví dụ: bên A có nghĩa vụ chuyển giao cho bên B một chiếc xe máy Libety thì khi thực hiện hợp đồng phải chuyển giao đúng loại xe đó chứ không thể chuyển giao một chiếc Atila được. Khi bên bán giao vật không đúng chủng loại mà các bên đã thỏa thuận, thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao đúng chủng loại và bồi thường thiệt hại. Bên mua cũng có thể nhận và thanh toán theo giá mà các bên đã thỏa thuận, hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Đối với các trường hợp thực hiện nghĩa vụ không đúng thời gian thỏa thuận, như thực hiện trước thời hạn hoặc thực hiện muộn nghĩa vụ chuyển giao tài sản, thì việc chậm thực hiện nghĩa vụ lại là một căn cứ khác làm phát sinh trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ. Khi xảy ra trường hợp nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện không đúng, trước hết bên có quyền thường áp dụng chế tài buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng bởi việc thực hiện hợp đồng vẫn là mối quan tâm hàng đầu của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng, đảm bảo cho các bên đạt được các lợi ích mà họ mong muốn từ việc thực hiện hợp đồng.
Trong nhiều trường hợp tiền phạt vi phạm hay tiền bồi thường thiệt hại không thể thay thế được các lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng. Chỉ khi không khắc phục được vi phạm, bên có quyền mới áp dụng các biện pháp chế tài khác như hủy bỏ hợp đồng, phạt vi phạm hay yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.