Các chế độ thai sản nói chung và việc nghỉ hưởng chế độ thai sản khi sinh con nói riêng là một vấn đề rất quan trọng đối với mỗi người lao động. Vậy nghỉ thai sản trùng vào ngày lễ, dịp tết thì người lao động có được nghỉ bù không?
Mục lục bài viết
1. Nghỉ thai sản trùng vào ngày lễ, dịp tết có được nghỉ bù không?
Theo quy định của pháp luật ở các nước trên thế giới nói chung và pháp luật của Việt Nam nói riêng, khi những người lao động là phụ nữ sinh con thì họ đều được nghỉ một thời gian nhất định với mục đích là để chăm sóc con nhỏ, dưỡng sức,….Ở nước ta, việc nghỉ thai sản được quy định đối với cả lao động nam và lao động nữ. Tại Điều 34
1.1. Quy định về thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản khi sinh con của lao động nữ trùng vào ngày lễ, tết:
Tại Điều này quy định khi lao động nữ sinh con thì đối tượng này sẽ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng, nhưng trong trường hợp lao động nữ sinh con đôi trở lên thì cứ mỗi con, người lao động nữ được nghỉ thêm 01 tháng tính từ con thứ hai trở đi. Lưu ý rằng, lao động nữ được quyền nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.
Tại khoản 7 Điều này pháp luật quy định đối với trường hợp lao động nữ sinh con đang trong thời gian hưởng chế độ thai sản thì thời gian hưởng chế độ thai sản sẽ tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Tức là trong thời gian hưởng chế độ thai sản mà trùng với ngày lễ, tết (ngày 01/09, ngày 10/03,…) thì đối tượng đang nghỉ việc hưởng chế độ thai sản là lao động nữ sẽ không được nghỉ bù.
1.2. Quy định về thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản đối với lao động nam trùng vào ngày lễ, tết:
Lao động nam được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi đối tượng này đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con.
Thời gian lao động nam được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau:
+ 05 ngày làm việc;
+ 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải thực hiện phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi;
+ Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở lên thì tính cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc;
+ Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải thực hiện phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai của người lao động nam được tính trong khoảng thời gian là 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.
Theo quy định này thì lao động nam được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính trong “ngày làm việc”. Có nghĩa là, thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản của nam sẽ chỉ tính đối với những ngày làm việc của họ, còn đối với những ngày nghỉ hàng tuần doanh nghiệp đã quy định, ngày lễ, tết thì sẽ không được tính vào thời gian đó. Như vậy, trong trường hợp lao động nam nghỉ hưởng chế độ thai sản trùng vào ngày lễ, tết thì đối tượng này sẽ được nghỉ bù.
Ngoài ra, tại khoản 6 của Điều này cũng quy định về trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ lại chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh con mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con theo đúng xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì người cha sẽ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi mà con đủ 06 tháng tuổi. Trong trường hợp này, pháp luật quy định thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản của đối tượng này sẽ tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Tức là trong thời gian hưởng chế độ thai sản mà trùng với ngày lễ, tết (ngày 01/05, ngày 30/04,…) thì đối tượng đang nghỉ việc hưởng chế độ thai sản là lao động nam trong trường hợp này sẽ không được nghỉ bù.
2. Nghỉ thai sản trùng vào ngày lễ, tết có được nghỉ bù đối với người lao động nhận nuôi con nuôi:
Người lao động được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi nhận nuôi con nuôi chỉ khi người được nhận nuôi đang dưới 06 tháng tuổi. Theo quy định của pháp luật, người lao động đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản khi nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi là người lao động đó phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian là 12 tháng trước khi nhận nuôi con nuôi, nếu như cả cha và mẹ đều cùng tham gia bảo hiểm xã hội đủ điều kiện này thì chỉ cha hoặc chỉ mẹ được nghỉ việc hưởng chế độ.
Điều 36 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định về thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản của người lao động khi nhận nuôi con nuôi, theo quy định tại Điều này thì Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Như vậy, người lao động sẽ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi mà người được nhận nuôi đủ 06 tháng tuổi. Ví dụ, chị A làm thủ tục nhận nuôi một trẻ sơ sinh đang 03 tháng tuổi, khi đó nếu chị A đủ điều kiện để được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản thì chị A sẽ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản là 03 tháng (đến khi người con nuôi của chị A đủ 06 tháng tuổi).
Quy định của pháp luật quy định về thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản của người lao động khi nhận nuôi con nuôi “đến khi con đủ 06 tháng tuổi”, ta hiểu cụm từ “đến khi con đủ 06 tháng tuổi” đó là thời gian nghỉ hưởng thai sản sẽ bao gồm cả thời gian trùng vào dịp lễ, tết, chính vì thế nếu như thời gian nghỉ hưởng thai sản trùng vào ngày lễ, tết thì người lao động sẽ không được nghỉ bù.
3. Nghỉ thai sản trùng vào ngày lễ, tết đối với người lao động nữ mang thai hộ và người mẹ mang thai hộ:
3.1. Người lao động nữ mang thai hộ khi sinh con:
– Điều kiện để người lao động nữ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sinh con: đáp ứng được một trong hai điều kiện sau:
+ Đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian là 12 tháng trước khi sinh con
+ Trong trường hợp người lao động nữ mang thai hộ sinh con đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai bắt buộc phải nghỉ việc để dưỡng thai theo dúng chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian là 12 tháng trước khi sinh con.
– Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sinh con:
Tại khoản 3 Điều 3
Đối với trường hợp này pháp luật quy định ngày nghỉ hưởng chế độ thai sản khi sinh con sẽ tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Chính vì thế, nếu như người lao động nữ mang thai hộ khi sinh con đang trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản thì họ sẽ không được nghỉ bù nếu như một trong những ngày đó trùng với ngày lễ, tết.
3.2. Người lao động nữ nhờ mang thai hộ:
– Điều kiện để người lao động nữ nhờ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản:
Người lao động nữ nhờ mang thai hộ đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian là 12 tháng tính đến thời điểm nhận con.
– Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản:
Tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 115/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định về thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với người lao động nữ nhờ mang thai hộ là cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi tính từ thời điểm nhận con. Trong trường hợp sinh đôi trở lên thì sẽ tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ nhờ mang thai hộ sẽ được nghỉ thêm 01 tháng. Cũng như trường hợp đối với người mang thai hộ, thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ chính là thời điểm ghi trong văn bản xác nhận thời điểm giao đứa trẻ của bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ.
Ở trường hợp này, pháp luật quy định thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản của người mẹ nhờ mang thai hộ là “cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi”, cũng giống như trường hợp nhận nuôi con nuôi thì ở trường hợp này ta cũng phải hiểu cụm từ “đến khi con đủ 06 tháng tuổi” đó là thời gian nghỉ hưởng thai sản sẽ bao gồm cả thời gian trùng vào dịp lễ, tết, chính vì thế nếu như thời gian nghỉ hưởng thai sản trùng vào ngày lễ, tết thì người lao động sẽ không được nghỉ bù. Tuy nhiên, pháp luật cũng không cấm việc thời gian nghỉ hưởng thai sản trùng vào ngày lễ, tết trong trường hợp này là người lao động được nghỉ bù, chính vì thế việc có được nghỉ bù trùng vào ngày lễ, tết sẽ căn cứ theo quy định của doanh nghiệp cũng như sự thoả thuận giữ người lao động và người sử dụng lao động.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Bảo hiểm xã hội 2014;
– Nghị định 115/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc;
–