Nghị định số 200/2004/NĐ-CP áp dụng đối với các lâm trường quốc doanh, các doanh nghiệp lâm nghiệp nhà nước được giao, được thuê đất để sử dụng vào mục đích quản lý.
NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ
Về sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ngày 19 tháng 8 năm 1991;
Căn cứ
Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
NGHỊ ĐỊNH:
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1. Nghị định này quy định việc sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh.
2. Nghị định này áp dụng đối với các lâm trường quốc doanh, các doanh nghiệp lâm nghiệp nhà nước được giao, được thuê đất để sử dụng vào mục đích quản lý, bảo vệ rừng và sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp (sau đây gọi chung là lâm trường quốc doanh).
Điều 2. Mục tiêu đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc doanh
1. Sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất; quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững tài nguyên rừng.
2. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các lâm trường quốc doanh.
3. Tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động; góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng trên địa bàn.
Điều 3. Nguyên tắc sắp xếp lại các lâm trường quốc doanh
1. Sắp xếp, đổi mới các lâm trường quốc doanh phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch về phát triển kinh tế – xã hội của mỗi địa phương, nhất là quy hoạch, kế hoạch phát triển lâm nghiệp.
2. Phân biệt rõ được loại hình lâm trường thực hiện nhiệm vụ công ích và nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh:
a) Những lâm trường thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh là chủ yếu thì phải hoạt động sản xuất và hạch toán theo cơ chế thị trường.
b) Những lâm trường chủ yếu thực hiện nhiệm vụ công ích thì chuyển thành Ban Quản lý rừng, hoạt động theo cơ chế của đơn vị sự nghiệp có thu.
3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về rừng, Nhà nước chỉ trực tiếp đầu tư, quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu, những vùng rừng xa dân không thể giao khoán cho dân, rừng tự nhiên còn trữ lượng lớn. Những diện tích rừng tự nhiên còn lại giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để tự đầu tư kinh doanh (khoanh nuôi, tái sinh) và hưởng lợi từ kết quả sản xuất, kinh doanh nghề rừng.
Chương II
ĐỔI MỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
Điều 4. Đổi mới tổ chức lâm trường quốc doanh
1. Những lâm trường đang quản lý chủ yếu là rừng trồng sản xuất, đất quy hoạch để trồng rừng sản xuất và quản lý rừng sản xuất chủ yếu là rừng tự nhiên có quy mô diện tích tập trung thì tổ chức lại thành Công ty Lâm nghiệp trên cơ sở phương án sản xuất, kinh doanh (từ trồng, chăm sóc bảo vệ, phát triển rừng, khai thác gắn với chế biến và tiêu thụ lâm sản).
2. Những lâm trường đang quản lý chủ yếu là rừng phòng hộ có diện tích từ 5.000 ha trở lên, rừng đặc dụng có diện tích từ 1.000 ha trở lên (trường hợp đặc biệt có thể nhỏ hơn) thì chuyển thành Ban Quản lý rừng phòng hộ, Ban Quản lý rừng đặc dụng, hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp có thu.
3. Những lâm trường đang quản lý diện tích đất rừng ít (dưới 1000 ha), phân bố xen kẽ với đất nông nghiệp, gần khu dân cư thì rà soát điều chỉnh lại quy mô diện tích phù hợp và chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu, làm dịch vụ sản xuất cây giống, xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân trong vùng.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568