Em có nhờ một người bạn mua vé máy bay. Em đã đưa cho bạn 1 nửa số tiền và còn thiếu gần 4 triệu. Liệu em có bị làm sao không?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào Luật sư! Trường hợp của tôi như sau rất mong nhận được sự tư vấn của luật sư.Tháng 07 năm 2014, em có nhờ một người bạn mua vé máy bay đi Huế – Sài Gòn và ngược lại. Em đã đưa cho bạn 1 nửa số tiền và còn thiếu gần 4 triệu, hiện em đang gặp khó khắn nên chưa trả cho bạn đó được và có hứa hẹn là sẽ trả sau , nhưng bạn của em không đồng ý và viết đơn tố cáo sự việc này cho cơ quan của em và yêu cầu cơ quan giải quyết. Người bạn em có cuộc ghi âm em nói chuyện với bạn đối thoại về việc vay tiền mua vé máy bay và ngày tháng trả tiền. Ngoài ra còn nói Phòng vé máy bay có người có thể đứng ra làm nhân chứng việc em chỉ mới trả một nửa. Vậy luật sư cho em hỏi em có phải là bị đơn bị ra
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Trước hết, với trường hợp của bạn có thể nhận định bạn đã thực hiện giao dịch dân sự bằng lời nói đó là hợp đồng đồng vay tiền theo quy định của Bộ luật dân sự.
“Điều 401. Hình thức hợp đồng dân sự
1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, nếu đã quá thời han bạn trả số tiền đó cho người bạn của bạn thì người đó có quyền khởi kiện bạn ra Tòa án dân sự về tranh chấp hợp đồng trên.
Trường hợp sau có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
“Điều 140 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
…..”
>>> Luật sư
Như vậy để truy cứu trách nhiệm hình sự phải thỏa mãn số tiền là bốn triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm khi thuộc một trong những trường hợp trên thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự.