Thuốc lá có nhiều tác hại đến sức khỏe không chỉ với người sử dụng mà còn đối với người xung quanh. Vậy mức phạt không treo thông báo không bán thuốc cho người dưới 18 được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Quy định pháp luật về bán thuốc lá:
Các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống tác hại của thuốc lá được quy định tại Điều 9 Văn bản hợp nhất 15/VBHN-VPQH 2023 hợp nhất Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá quy định bao gồm:
– Sản xuất, mua bán, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển thuốc lá giả, những sản phẩm được thiết kế có hình thức hoặc kiểu dáng như bao, gói hoặc điếu thuốc lá.
– Mua bán, tàng trữ, vận chuyển những nguyên liệu thuốc lá, thuốc lá nhập lậu.
– Quảng cáo, khuyến mại thuốc lá; tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới những người tiêu dùng dưới mọi hình thức.
– Tài trợ của tổ chức, cá nhân kinh doanh thuốc lá, trừ trường hợp quy định tại Điều 16 của Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá.
– Người chưa đủ 18 tuổi mà sử dụng, mua, bán thuốc lá.
– Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi thực hiện mua, bán thuốc lá.
– Bán, cung cấp thuốc lá cho những người chưa đủ 18 tuổi.
– Bán thuốc lá bằng máy bán thuốc lá tự động; hút, bán thuốc lá tại những địa điểm có quy định cấm.
– Sử dụng những hình ảnh thuốc lá trên báo chí, xuất bản phẩm dành riêng cho trẻ em.
– Vận động, ép buộc những người khác sử dụng thuốc lá.
Theo đó, một trong các hành vi bị nghiêm cấm trong trong phòng, chống tác hại của thuốc lá là bán, cung cấp thuốc lá cho những người chưa đủ 18 tuổi. Thêm nữa, tại Điều 25 Văn bản hợp nhất 15/VBHN-VPQH 2023 hợp nhất Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá quy định về điều kiện bán thuốc lá, Điều này quy định việc bán thuốc lá phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
– Doanh nghiệp, đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá buộc phải có giấy phép bán thuốc lá theo quy định của Chính phủ;
– Người chịu trách nhiệm tại điểm bán của đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá phải thực hiện việc treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi;
– Đại lý bán lẻ, điểm bán lẻ thuốc lá không được thực hiện việc trưng bày quá một bao, một tút hoặc một hộp của một nhãn hiệu thuốc lá.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì các đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá phải thực hiện việc treo biển thông báo không bán thuốc lá cho những người chưa đủ 18 tuổi tại điểm bán của đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá. Nếu không thực hiện việc treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi tại điểm bán của đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá thì đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Mức phạt khi không treo thông báo không bán thuốc cho người dưới 18:
Như đã phân tích ở mục trên, nếu không thực hiện việc treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi tại điểm bán của đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá thì đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Điều 26 Nghị định 117/2020/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực y tế được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 124/2021/NĐ-CP có quy định về xử phạt vi phạm quy định về bán, cung cấp thuốc lá, Điều này đã quy định xử phạt vi phạm quy định về bán, cung cấp thuốc lá như sau:
– Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không có biển thông báo không bán thuốc lá cho những người mà chưa đủ 18 tuổi tại điểm bán của đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá.
– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
+ Trưng bày quá một bao hoặc một tút hoặc quá một hộp của một nhãn hiệu thuốc lá tại đại lý bán lẻ, điểm bán lẻ thuốc lá;
+ Bán, cung cấp thuốc lá cho những người chưa đủ 18 tuổi;
+ Bán, cung cấp thuốc lá không ghi nhãn, không in cảnh báo về sức khỏe ở trên bao bì thuốc lá theo đúng các quy định của pháp luật. Nếu trong trường hợp bán thuốc lá không ghi nhãn, không in về cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá là sản phẩm thuốc lá nhập lậu, thuốc lá giả thì thực hiện xử phạt theo đúng các quy định của pháp luật về hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thêm nữa, tại khoản 5 Điều 4 Nghị định 117/2020/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực y tế được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 124/2021/NĐ-CP đã quy định mức phạt tiền được quy định tại Chương II Nghị định 117/2020/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực y tế được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 124/2021/NĐ-CP (bao gồm cả Điều quy định về xử phạt vi phạm quy định về bán, cung cấp thuốc lá) là mức phạt tiền đối với cá nhân. Còn đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Như vậy, nếu không thực hiện việc treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi tại điểm bán của đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá thì đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá sẽ bị xử phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng nếu là cá nhân và phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng nếu là tổ chức. Ngoài ra, nếu đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ thuốc lá có hành vi bán, cung cấp thuốc lá cho những người chưa đủ 18 tuổi thì cũng sẽ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
3. Trách nhiệm xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động bán thuốc lá:
– Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện kịp thời và thực hiện xử lý hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá (bao gồm cả hoạt động treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi) ; nếu dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý nhưng không kịp thời, không đúng với các quy định thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.
– Bộ Y tế có trách nhiệm tổ chức việc xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi hút thuốc lá ở tại những địa điểm có quy định cấm và hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá (bao gồm cả hoạt động treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi) thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.
– Bộ Công an có trách nhiệm tổ chức việc xử lý vi phạm đối với hành vi hút thuốc lá ở tại những địa điểm cấm hút thuốc lá và hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá (bao gồm cả hoạt động treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi) thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.
– Bộ Công thương có trách nhiệm thực hiện chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổ chức việc xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi kinh doanh thuốc lá nhập lậu, thuốc lá giả mà thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.
– Bộ Quốc phòng có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổ chức việc xử lý vi phạm đối với những hành vi kinh doanh thuốc lá nhập lậu, thuốc lá giả thuộc khu vực biên giới và lĩnh vực được phân công phụ trách.
– Các bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với những bộ ngành liên quan tổ chức việc xử lý vi phạm hành chính về phòng, chống tác hại của thuốc lá (bao gồm cả hoạt động treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi) thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.
– Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện chủ trì, phối hợp với những cơ quan, tổ chức liên quan để tiến hành tổ chức, chỉ đạo, bố trí lực lượng và phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân mà có liên quan trong việc xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi vi phạm quy định về hút thuốc lá ở tại những địa điểm có quy định cấm, kinh doanh thuốc lá nhập lậu, thuốc lá giả. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải có trách nhiệm chủ trì, tổ chức việc xử phạt đối với những hành vi hút thuốc lá tại địa điểm công cộng có quy định cấm thuộc địa bàn quản lý.
– Cơ quan, người có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá (bao gồm cả hoạt động treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi) nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì phải tiến hành chuyển cơ quan tiến hành tố tụng để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 15/VBHN-VPQH 2023 hợp nhất Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá;
– Nghị định 117/2020/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực y tế được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 124/2021/NĐ-CP.