Cá nhân được xác định là đồng phạm trong hành vi đánh bạc nếu bị phát hiện thì cá nhân này có thể đối diện với mức xử phạt theo luật hình sự. Vậy mức hình phạt đồng phạm trong tội đánh bạc như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Khi nào được coi là đồng phạm trong tội đánh bạc ?
Thuật ngữ đồng phạm được nhắc đến tương đối nhiều trong các văn bản pháp luật chủ yếu liên quan đến lĩnh vực hình sự. Theo cách hiểu đơn giản, đồng phạm được là việc một cá nhân cùng thực hiện hành vi phạm tội với một người khác xâm phạm đến quyền lợi ích của chủ thể là cá nhân hoặc tổ chức nhất định.
Còn trong Khoản 1 Điều 17
+ Cá nhân được xác định là người thực hành thì trên thực tế người này phải thực hiện tội phạm đó một cách trực tiếp, không thông qua bất kỳ một cá nhân hay là yếu tố nào;
+ Người nào có hành vi tổ chức thì được xác định là người tham gia chủ mưu cầm đầu chỉ huy những đối tượng khác thực hiện tội phạm;
+ Người sử dụng được hiểu là người có sự tham gia kích động dụ dỗ thúc đẩy người khác tiến hành thực hiện hành vi phạm tội;
+ Để xác định một người có giúp sức trong hành vi tội đánh bạc hay không thì phải xem xét người này liệu có bất kỳ hành động nào tạo điều kiện về tinh thần hay vật chất để cho những đối tượng khác thực hiện hành vi phạm tội.
– Đáng lưu ý: người đồng phạm sẽ chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mà họ đã gây ra, không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người trực tiếp thực hành. Như vậy, căn cứ với quy định nêu trên đồng phạm được hiểu là có hai người trở lên cùng thực hiện một tội phạm nhất định; Hành vi vi phạm này xuất phát từ lỗi cố ý. Quá trình tham gia vào hành vi vi phạm có thể là người trực tiếp thực hiện tội phạm hoặc người tổ chức sử dụng giúp sức những đối tượng khác.
2. Mức hình phạt đồng phạm trong tội đánh bạc như thế nào?
Xác định đồng phạm là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết một vụ án hình sự, đảm bảo sự công bằng, minh bạch, không bỏ lọt tội phạm. Để xác định một cá nhân có phải đồng phạm trong tội đánh bạc hay không phải xem xét trên nhiều yếu tố nhau bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan. Trường hợp đặt ra, nếu cá nhân chỉ đứng xem hoặc không có hành vi cổ vũ ,canh gác tạo điều kiện thuận lợi để cho hành vi đánh bạc này diễn ra thì cá nhân sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
Còn đối với trường hợp cá nhân có hành vi cổ vũ, kích động, tạo điều kiện cho những người trong chiếu bạc mượn tiền hoặc thực hiện bất kỳ một nhiệm vụ nào được giao phó như canh gác hoặc cung cấp tiền tạo điều kiện cho người khác tham gia thì cá nhân này sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với trường hợp đồng phạm theo tội đánh bạc quy định tại Điều 321 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:
– Khung 1: được quy định với mức phạt là cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm nếu cá nhân có những hành vi vi phạm dưới đây:
+ Cá nhân tham gia vào việc đánh bạc trái phép không kể bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật mà có giá trị từ 5 triệu đến dưới 50 triệu đồng;
+ Trong trường hợp tiền hoặc hiện vật trị giá dưới 5 triệu đồng nhưng cá nhân này đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc trước đây đã tiến hành tổ chức đánh bạc, gá bạc;
+ Ngoài ra, cơ quan điều tra nếu phát hiện người này đã từng bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc mà chưa được xóa án tích; đến nay vẫn còn vi phạm thì tiền hoặc hiện vật không phải là yếu tố cốt lõi để truy tố trách nhiệm hình sự.
– Khung 2: Khi cá nhân có hành vi vi phạm mà đầy đủ các yếu tố dưới đây sẽ bị áp dụng mức phạt tù từ 3 năm đến 7 năm:
+ Thực hiện hành vi phạm tội được cơ quan điều tra đánh giá là có tính chất chuyên nghiệp;
+ Số tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc có trị giá 50 triệu đồng trở lên;
+ Ngoài việc sử dụng hình thức đánh bạc thông thường, các cá nhân này còn sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi phạm tội;
+ Hoạt động của cá nhân này có dấu hiệu tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra, các cá nhân có hành vi đánh bạc còn bị áp dụng mức hình phạt bổ sung đó là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Như vậy trường hợp được xác định là đồng phạm trong tội đánh bạc có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc tùy theo tình tiết vụ án hoặc sự tham gia vào trong hoạt động đánh bạc này.
3. Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có áp dụng với tội đồng phạm đánh bạc:
Sau khi xác định đồng phạm thì quyết định hình phạt đối với trường hợp này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Theo quy định tại Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 cụ thể như sau:
– Tòa án có thẩm quyền quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm. Quá trình này phải xem xét đến tính chất của đồng phạm và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm đối với vụ việc này;
– Những người đồng phạm vẫn được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng các tình tiết hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự này chỉ được áp dụng với chính đối tượng đó.
Như vậy, tội đồng phạm đánh bạc về nguyên tắc vẫn được xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cụ thể:
3.1. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
– Cá nhân phạm tội đã nhận thức được hành vi nguy hiểm của mình và cố gắng ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại mà hành vi của mình gây ra;
– Với mục đích muốn khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm, người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường;
– Một số trường hợp, cá nhân bị một cá nhân khác tấn công hoặc có hành vi xâm phạm mà có sự phản kháng dẫn đến những hậu quả không mong muốn thì trong trường hợp này xác định là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Khi phải đối mặt với một tình huống bất ngờ cần có sự phản ứng nhanh chóng, kịp thời mà hành động này dẫn đến hành vi phạm phạm tội; trong trường hợp này được xác định là vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết;
– Cá nhân đang thực hiện nhiệm vụ để bắt giữ người phạm tội nhưng trong quá trình này lại có hành vi vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
– Khi chứng kiến hành vi trái pháp luật của nạn nhân nhân gây ra mà cá nhân có tinh thần bị kích động dẫn đến hành vi phạm tội;
– Người nào đang trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà phạm tội nhưng không phải do mình tự gây ra;
– Xét trên thực tế hành vi phạm tội được diễn ra nhưng chưa gây nên hậu quả hoặc gây thiệt hại không lớn;
– Những cá nhân có nhân thân tốt và hành vi vi phạm này là lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Các tình tiết này cũng cần xem xét đến trường hợp cá nhân bị đe dọa hoặc cưỡng bức dẫn đến tình trạng thực hiện hành vi này;
– Chủ thể bị hạn chế bạn đang nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; – Khi phải sinh sống trong một môi trường điều kiện kinh tế văn hóa gặp nhiều khó khăn dẫn đến sự lạc hậu thì hành vi phạm tội do vấn đề lạc hậu này cũng sẽ được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
– Đối với nhóm người được xếp vào là người yếu thế như phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng thì khi có hành vi phạm tội cũng được xem xét;
– Người có bệnh bị hạn chế năng lực nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Sau khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội đã nhận thấy được sự sai lầm của mình thành thật khai báo ăn năn hối cải; tự thú về hành động của mình gây ra;
– Đồng thời, cá nhân này có sự chuyển biến về suy nghĩ và hành động tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
– Trong quá trình hỗ trợ cơ quan điều tra điều tra tội phạm mà người phạm tội tự đóng góp được xác định là hành động lập công chuộc tội;
– Xem xét trên phương diện đời sống của người phạm tội nếu người này có các thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác;
– Người phạm tội này là người có công với cách mạng hoặc có nhân thân là cha mẹ vợ chồng con của liệt sĩ.
Như vậy, khi Tòa án đưa ra quyết định hình phạt phải xem xét các tình tiết giảm nhẹ của đối tượng được xác định là đồng phạm và ghi rõ trong bản án lý do được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Đáng lưu ý: những tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật Hình sự 2015 quy định được coi là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì sẽ không được sử dụng để làm tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt (theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015).
3.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Khi người phạm tội có những tình tiết sau đây sẽ thuộc các trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự:
– Cá nhân này khi tham gia vào hoạt động đánh bạc nhưng phạm tội có tổ chức, có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng để hỗ trợ thực hiện hành vi này;
– Tính chất chuyên nghiệp cũng là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành xem xét để định khung định tội;
– Cá nhân đang được đảm nhiệm chức vụ quyền hạn nhất định mà lợi dụng chức vụ quyền hạn này để thực hiện hành vi phạm tội dễ dàng hơn;
– Xuất phát từ bản tính hung hăng, coi thường pháp luật, hành vi phạm tội được đánh giá có tính chất côn đồ, địa điểm thực hiện hành vi ở những khu vực công cộng đông người hoặc thậm chí là gần những cơ quan trụ sở làm việc của Công an,..
– Xuất phát từ lòng ghen ghét, đố kỵ hoặc nhận thấy yêu cầu của mình không đạt được dẫn đến người này có hành vi phạm tội. Điều này được đánh giá đó là tình tiết tăng nặng vì động cơ đê hèn;
– Vì một số lý do khách quan hoặc chủ quan mà hành vi phạm tội gặp những khó khăn, vướng mắc nhưng đối tượng này vẫn cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
– Cùng một tội phạm nhất định nhưng người này đã phạm tội hai lần trở lên;
– Vì được đánh giá là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm gây ảnh hưởng nghiêm trọng quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân và ảnh hưởng đến an ninh trật tự an toàn xã hội;
– Những đối tượng là người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên bị cá nhân thực hiện hành vi phạm tội;
– Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các lĩnh vực khác mà thực hiện hành vi phạm tội;
– Đối với một số trường hợp, các cá nhân nhận thấy quốc gia đang phải trải qua hoàn cảnh chiến tranh tình trạng khẩn cấp thiên tai, dịch bệnh và những khó khăn đặc biệt khác của xã hội nhưng lại lợi dụng để trục lợi cá nhân và thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
– Để hỗ trợ cho quá trình thực hiện hành vi phạm tội những cá nhân này không từ thủ đoạn tinh vi xảo quyệt hoặc tàn ác;
– Ngoài ra các phương tiện có khả năng gây nguy hại nhiều người cũng được các đối tượng này sử dụng;
– Với những cá nhân chưa đủ tuổi thành niên cụ thể là dưới 18 tuổi nhưng lại xúi giục những người này phạm tội;
– Trước khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc sau khi thực hiện các cá nhân này có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm che giấu trốn tránh tội phạm.
3.3. Loại trừ trách nhiệm hình sự:
Loại trừ trách nhiệm hình sự được hiểu là một người có hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một cá nhân, xã hội nhưng khi xem xét về hoàn cảnh thực hiện hành vi này thì pháp luật không coi đó là hành vi phạm tội và người này cũng sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Bộ Luật hình sự 2015 thì có những trường hợp loại trừ miễn trách nhiệm hình sự như sau:
– Hành vi phạm tội của một người diễn ra do sự kiện bất ngờ ;
– Chủ thể thực hiện hành vi không có năng lực trách nhiệm hình sự ví dụ như không đủ độ tuổi không có năng lực hành vi,..
– Vì bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình mà thực hiện các hành vi phòng vệ nhưng không may gây ra những thiệt hại;
– Đối với một số trường hợp cần có sự can thiệp nhanh chóng cấp thiết thì có thể được cân nhắc loại trừ nhiệm hình sự;
– Hoạt động bắt giữ người phạm tội nhưng dẫn đến gây thiệt hại;
– Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ xảy ra những rủi ro không đáng có;
– Cá nhân là cấp dưới đang nhận nhiệm vụ được giao phó từ cấp trên; tuân thủ thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy mà mệnh lệnh này của người chỉ huy có sự sai phạm.
Văn bản pháp luật được sử dụng: