Hình phạt là thuật ngữ được gắn liền với Luật hình sự, nếu nói Luật hình sự là công cụ nhằm đấu tranh, phòng chống tội phạm thì hình phạt là “cái” hiện thực hóa hoạt động đấu tranh đó, nó là công cụ đảm bảo sự giáo dục, răn đe ở mức độ cao đối với người thực hiện hành vi mà pháp luật hình sự coi là tội phạm.
1. Hình phạt là gì?
Khoa học Luật hình sự nước ngoài có đưa ra một số định nghĩa về khái niệm hình phạt, Điều này xuất phát từ nhiều học thuyết khác nhau trên thế giới như học thuyết hình phạt tuyệt đối (coi hình phạt là công cụ trừng trị, trả thù người phạm tội), học thuyết hình phạt tương đối (coi hình phạt là công cụ phòng ngừa tội phạm); hay có những người theo quan niệm hình phạt không chỉ trừng trị người phạm tội mà còn là công cụ phòng ngừa tội phạm; từ đó, khái niệm hình phạt được ra đời như một sự chứng minh cho những gì mà họ theo đuổi và quan niệm:
Hình phạt “là sự trừng trị được luật quy định để phòng ngừa và trấn áp hành vi cấu thành tội phạm gây tổn hại đến trật tự xã hội…; sự trừng trị buộc người hạm tội phải chịu trong lĩnh vực hình sự thuộc quyền của thẩm phán hình sự, chiếu theo quy định của pháp luật”;
hay hình phạt “là sự đền bù của hành vi trái pháp luật nghiêm trọng bằng việc trừng trị các Điều ác được làm thích ứng với mức độ của sự bất công và lỗi. Nó là sự khiển trách công khai hành vi trái pháp luật, qua đó khôi phục lại công lý.”
Tiếp thu những điểm tiến bộ, nhân đạo trong quan điểm tinh hoa của khoa học luật hình sự thế giới, Luật hình sự Việt Nam đã đưa ra khái niệm về hình phạt, vừa thống nhất vừa khác biệt, phù hợp với tình hình chính trị – xã hội tại Việt Nam.
Điều 30
Hình phạt trong Tiếng Anh là “Punishment”.
Ví dụ: To inflict a punishment on a criminal ( Tạm dịch: Buộc một tên tội phạm phải chịu hình phạt)
Mục đích của hình phạt tiếng Anh là: “purpose of punishment”.
2. Mục đích của hình phạt:
Điều 31 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về mục đích của hình phạt như sau: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”
Từ quy định trên, có thể hiểu mục đích của hình phạt cụ thể hơn:
Một là, mục đích phòng ngừa riêng.
Điều đó được thể hiện thông qua việc hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Nội dung cơ bản của mục đích này chính là sự tước bỏ, hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật hình sự đối với người hoặc pháp nhân thương mại bị áp dụng hình phạt, hình phạt trước hết thể hiện sự lên án, xử phạt của nhà nước đối với người phạm tội, nhưng đó không phải là sự lên án, xử phạt đơn thuần mà là biện pháp đặc biệt để răn đe, để giáo dục, cải tạo người bị kết án, ngăn ngừa họ phạm tội lại.
Trong mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và giáo dục người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới là hai mục đích song song tồn tại và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể nói rằng, trong mối quan hệ giữa trừng trị và giáo dục của hình phạt thì trừng trị vừa là mục đích vừa là phương tiện để đạt được mục đích cuối cùng và chủ yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục, cải tạo họ.
Hai là, mục đích phòng ngừa chung.
Điều này thể hiện trong việc “giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”. Nội dung cơ bản của mục đích phòng ngừa chung thể hiện ở việc ngăn ngừa người hoặc pháp nhân thương mại khác phạm tội.
Hình phạt được đưa ra khiến cho các cá nhân hoặc pháp nhân thương mại khác thấy trước được hậu quả pháp lý- trách nhiệm hình sự mà tất yếu phải gánh chịu nếu họ thực hiện hành vi vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, khiến họ từ bỏ ý định phạm tội hoặc thận trọng hơn trong cách xử sự để tránh hành vi của mình trở thành hành vi phạm tội. Đối với các thành viên khác trong xã hội, hình phạt có mục đích giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật, động viên, khuyến khích đông đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
3. Căn cứ áp dụng hình phạt:
Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân thương mại được quy định tại Điều 32, 33 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 như sau:
(i) Các hình phạt áp dụng đối với người phạm tội bao gồm: Hình phạt chính ( cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình) và hình phạt bổ sung (cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản).
(ii) Các hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: Hình phạt chính( phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn) và hình phạt bổ sung (cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn, phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính)
Theo quy định tại Điều 50
“Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.”. Như vậy, các căn cứ quyết định hình phạt bao gồm:
(1) Các quy định của Bộ luật hình sự:
Tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn loại và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội: các quy định trong phần chung theo Khoản 1 Điều 2 – cơ sở của TNHS; Khoản 1 Điều 3 – nguyên tắc xử lí đối với người phạm tội; Điều 30 đến Điều 45 – các quy định về hình phạt đối với người phạm tội; Điều 46 đến Điều 49 các quy định về biện pháp tư pháp đối với người phạm tội; Điều 54 đến Điều 59 – các quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể) và các quy định trong phần các tội phạm (là các quy định về khung hình phạt chính, khung hình phạt bổ sung cho từng tội phạm)- căn cứ giúp tòa án xác định được khung hình phạt cần áp dụng cho người phạm tội (trong trường hợp không được miễn hình phạt theo Điều 59
(2) Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt sẽ đảm bảo được tính thống nhất và sự công bằng trong quyết định hình phạt đối với các trường hợp phạm tội khác như của cùng tội phạm. Mức độ đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tính chất của hành vi phạm tội (thủ đoạn, công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện,…); tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra; mức độ lỗi (tính chất của động cư, quyết tâm phạm tội); hoàn cảnh phạm tội; những tình tiết về nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
(3) Nhân thân người phạm tội.
Do một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội cũng ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt cũng có ý nghĩa là cân nhắc đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội.
Có thể thấy rằng, trong căn cứ (1) và (2) đã chứa đựng một phần nội dung của căn cứ thứ ba. Tuy nhiên, vẫn cần xem xét nhân thân của người phạm tội là một căn cứ độc lập để khi quyết định hình phạt, tòa án phải cân nhắc trong tổng thể đặc điểm nhân thân của người phạm tội liên quan đến hành vi phạm tội cũng như khả năng đạt được mục đích của hình phạt. Những đặc điểm nhân thân cần cân nhắc như:
– Những đặc điểm có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự, tái phạm hay tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không, là người chưa đủ 18 tuổi hay đủ 18 tuổi,…
– Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ như là người bị bệnh hiểm nghèo, già yếu, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ hoặc là người có hoàn cảnh bản thân hay gia đình đặc biệt khó khăn,…
(4) Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Căn cứ này được quy định cụ thể tại Điều 51 và 52 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Điều 51: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng Điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.