Tội mua bán người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, coi con người như hàng hóa để trao đổi, mua bán nhằm kiếm lợi nhuận, gây tổn hại hoặc đe dọa đến quyền bất khả xâm phạm, tự do thân thể, nhân phẩm con người.
Mục lục bài viết
1. Mua bán người là gì:
Theo từ điển tiếng Việt “mua bán được hiểu là:
Hành vi trao đổi giữa hai bên, trong đó người mua hàng hay dịch vụ nhận được quyền sở hữu hàng hóa (hay dịch vụ) từ người bán hay người làm dịch vụ bằng cách trả một số tiền theo giá cả hai bên thoả thuận, hoặc giá cả hợp pháp do nhà nước quy định chính thức .
Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam khái niệm tội mua bán người được hiểu tương đối thống nhất, chẳng hạn theo Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hòa, mua bán người được hiểu như sau: “Mua bán người là những hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác như vàng, ngoại tệ... để trao đổi mua bán người như một thứ hàng hóa”.
Tương tự như quan điểm nêu trên, có tác giả khác cũng cho rằng: “Mua bán người, được hiểu là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các phương tiện thanh toán khác để trao đổi lấy người hoặc ngược lại để thu lợi bất chính” .
Về mặt luật thực định, luật hình sự Việt Nam không quy định khái niệm pháp lý về tội mua bán người; tội mua bán người được quy định trong các điều luận phần “Các tội phạm” của BLHS, cụ thể: tội mua bán phụ nữ và tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em (BLHS năm 1985); tội mua bán phụ nữ và tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (BLHS năm 1999); tội mua bán người (BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009); tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi (BLHS năm 2015).
Để có cách hiểu thống nhất trong BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT/TANDTC–VKSNDTC–BCA BQP–BTP ngày 23/07/2013 hướng dẫn việc truy cứu TNHS (TNHS) đối với người có hành vi mua bán người, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em của
Mua bán người là hành vi đang tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi sau đây: 1. Bán người cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua. 2. Mua người để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào? 3. Dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán; 4, Mua người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác; 5. Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên, đều bị truy cứu TNHS về tội mua bán người. Trên thế giới, pháp luật quốc tế hiện nay không quy định khái niệm mua bán người mà quy định chung về khái niệm buôn bán người. Khái niệm buôn bán người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế trong đó có Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của liên hợp quốc (Nghị định thư Palermo). Văn kiện này được thông qua và mở cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 55/25 ngày 15/11/2000 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Theo quy định tại Điều 3 của Nghị định thư này, khái niệm buôn bán người được hiểu như sau:
a) “Buôn bán người” có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, hay lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người đang kiểm soát những người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ít nhất, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay phục vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc lấy các bộ phận cơ thể;
b) Sự chấp thuận của một nạn nhân của việc buôn bán người đối với sự bóc lột có chủ ý được nêu ra trong khoản (a) của điều này là không thích đáng nếu bất kỳ cách thức nào nêu trong khoản (a) đã được sử dụng.
c) Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là “buôn bán người” ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ cách thức nào được nói đến trong khoản (a) điều này .
Khái niệm buôn bán người theo quy định của Nghị định thư Palermo tập trung vào các yếu tố:
Thứ nhất, về hành vi, buôn bán người bao gồm: hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người.
Thứ hai, về thủ đoạn thực hiện hành vi là đe dọa hoặc sử dụng vũ lực hoặc các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn, đưa hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người có quyền kiểm soát đối với người khác.
Thứ ba, về mục đích là nhằm bóc lột người bị mua bán (bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, làm khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể).
Đây là khái niệm có tính chính thống về buôn bán người theo tinh thần Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung Công ước về chống buôn bán người. Khái niệm này được sử dụng phổ biến trong hoạt động chống buôn bán người trên thế giới và được luật hóa trong pháp luật của nhiều quốc gia.
Ngoài Nghị định thư Palermo, một số văn kiện pháp luật quốc tế cũng đưa ra khái niệm liên quan đến buôn bán người, trong đó có nhiều điểm tương đồng với khái niệm của Nghị định thư chống buôn bán người, nhưng do được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, nên chưa có khái niệm nào đầy đủ, toàn diện như khái niệm được nêu trong Nghị định thư Palermo.
Theo Liên minh toàn cầu chống buôn bán phụ nữ GAATW (Global Alliance Against Trafficking of Women) phối hợp với các tổ chức Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ đã đưa ra khái niệm khái quát về buôn bán người là: Mọi hoạt động có ý tham gia vào việc tuyển mộ, chuyên chở trong nước hoặc qua biên giới, mua, bán, chuyển, chứa chấp hoặc nhận một người bằng thủ đoạn lừa gạt và cưỡng bức, kể cả việc dùng hoặc đe dọa dùng bạo lực, lạm dụng quyền hành hoặc lợi dụng tình hình nợ chồng chất của người đó để đưa hoặc buộc họ làm việc trong tình trạng nô lệ không tự nguyện (việc nhà, tình dục hoặc sinh sản) không hoặc có được trả công, lao động cưỡng bức hoặc có giao kèo, hoặc lao động trong các điều kiện nô lệ trong một cộng đồng mà không phải nơi mà người đó sống khi bị lừa gạt, cưỡng bức hay nợ chồng chất ban đầu.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm buôn bán người, như sau: Buôn bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc các hình thức khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người mà người đó đang có quyền kiểm soát một người khác, nhằm mục đích bóc lột. Việc bóc lột bao gồm, bóc lột làm nghề mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như tình trạng nô lệ, khổ sai hay cất đi những bộ phận cơ thể con người.
Do có những đặc điểm riêng về truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, điều kiện kinh tế mà pháp luật của mỗi quốc gia quy định về khái niệm buôn bán người khác nhau. Pháp luật của một số quốc gia quy định khái niệm “buôn bán người” theo những chuẩn mực pháp lý quốc tế, thì cũng có một số quốc gia khác, khái niệm này chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp hoặc có những điểm không tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và quy định của pháp luật hình sự quốc tế về tội mua bán người, có thể thấy rằng khái niệm mua bán người ở Việt Nam đã có một số điểm tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế, đó là: đã quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng các thủ đoạn khác để chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng các thủ đoạn khác để chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Đồng thời, quy định các mục đích mua bán người đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt.
2. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội mua bán người:
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về khái niệm tội mua bán người như sau:
Tội mua bán người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, coi con người như hàng hóa để thực hiện việc trao đổi, mua bán với mục đích là kiếm lợi nhuận, gây tổn hại hoặc đe dọa đến quyền bất khả xâm phạm, tự do thân thể, nhân phẩm của con người.
Tội mua bán người có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau đây:
2.1. Thứ nhất, về khách thể của tội mua bán người:
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định”. Tội phạm mua bán người xâm phạm đến quyền con người, cụ thể ở đây xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của con người khi coi con người như hàng hóa để trao đổi trên thị trường. Đối tượng tác động của tội phạm mua bán người là người từ đủ 16 tuổi trở lên (bao gồm cả nữ giới và nam giới).
2.2. Thứ hai, chủ thể của tội mua bán người:
Chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm (tức bị luật hình sự coi là tội phạm), có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo quy định (ngoài ra trong một số trường hợp cụ thể chủ thể của tội phạm còn có một số dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định).
Chủ thể thực hiện phạm tội của tội mua bán người là chủ thể thường, nghĩa là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS nếu phạm tội thuộc các trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Hiện nay, đã xuất hiện những trường hợp mua bán người được thực hiện thông qua hoạt động của các tổ chức như dưới hình thức xuất khẩu lao động, kết hôn có yếu tố nước ngoài, văn phòng con nuôi... Trong nhiều trường hợp, lợi nhuận mà các tổ chức này thu được từ việc mua bán người còn cao hơn, nhiều hơn so với các cá nhân. Pháp luật hình sự Việt Nam tuy đã quy định về TNHS đối với pháp nhân thương mại nhưng lại chỉ giới hạn ở 33 tội phạm và trong đó không có tội phạm về mua bán người. Do đó tội mua bán người chỉ xét đến TNHS của cá nhân, pháp nhân thương mại hiện nay không phải chịu TNHS về loại tội phạm này.
2.3. Thứ ba, mặt khách quan của tội mua bán người:
Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu do luật hình sự quy định và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại cụ thể gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Nói một cách khác mặt khách quan của tội phạm là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan.
Những biểu hiện bên ngoài đó bao gồm: Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...).
Hành vi khách quan của tội mua bán người:
Hành vi khách quan của tội mua bán người được quy định trong cấu thành cơ bản của tội mua bán người, bao gồm:
Một là, hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao nhận, tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, theo đó người phạm tội đã có hành vi chuyển giao và tiếp nhận người vì mục đích lợi nhuận.
Hai là, hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc mục đích vô nhân đạo khác. Hành vi của người phạm tội có thể là hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người với các mục đích sau:
Bóc lột tình dục: là trường hợp chuyển giao, tiếp nhận hoặc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp nạn nhân nhằm chuyển giao cho người khác để thực hiện các hoạt động bóc lột tình dục (như tổ chức cho nạn nhân bán dâm, đưa nạn nhân đến các cơ sở chứa mại dâm để bán dâm, sử dụng nạn nhân để sản xuất ấn phẩm khiêu dâm, trình diễn khiêu dâm, làm nô lệ tình dục...) hoặc tiếp nhận nạn nhân để phục vụ nhu cầu tình dục của chính mình.
Cưỡng bức lao động: là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc nạn nhân lao động trái ý muốn của họ.
Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: là trường hợp chuyển giao, tiếp nhận hoặc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp nạn nhân để chuyển giao nhằm lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân.
Vì mục đích vô nhân đạo khác: là sử dụng nạn nhân để làm thí nghiệm, buộc nạn nhân phải đi ăn xin hoặc sử dụng nạn nhân vào các mục đích tàn ác khác,...
Ba là, hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để chuyển giao hoặc tiếp nhận người nhằm giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác hoặc để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
Hiện nay có một số quan điểm khác nhau về hành vi khách quan mới được bổ sung trong BLHS năm 2015 , tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, cần hiểu đây là hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác nhằm chuyển giao hoặc tiếp nhận người để thực hiện các mục đích giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, hoặc để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
Phần lớn các quan điểm hiện nay đều thống nhất tội mua bán người có CTTP hình thức, tuy nhiên, thời điểm tội phạm hoàn thành có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng “Tội phạm hoàn thành khi việc thỏa thuận mua bán xong mà không cần thêm giai đoạn trao người và nhận tiền” . Thế nhưng, lại có quan điểm: “Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi như tìm kiếm người, liên hệ nơi mua, bán, thỏa thuận giá cả, nơi giao nhận nhưng vì nguyên nhân nào đó ngoài ý muốn mà họ không thực hiện được việc mua bán người thì đó là trường hợp phạm tội chưa đạt” . Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai, theo đó, tội mua bán người chỉ hoàn thành khi người phạm tội đã có hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người hoặc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác với những mục đích được liệt kê tại điểm c khoản 1 Điều 150 BLHS năm 2015.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mua bán người: Hậu quả của hành vi mua bán người là con người bị đem ra mua bán, trao đổi như hàng hóa, danh dự, nhân phẩm bị chà đạp, một số trường hợp còn gây tổn hại nghiêm trọng về mặt sức khỏe, tinh thần…
2.4. Thứ tư, mặt chủ quan của tội mua bán người:
Mặt chủ quan của tội phạm có thể được định nghĩa là đặc điểm tâm lý bên trong của cách xử sự có tính chất tội phạm xâm hại đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Nói một cách khác là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện với hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó (lỗi).
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Mục đích phạm tội được quy định là dấu hiệu của CTTP cơ bản của tội mua bán người có thể là “để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác” hoặc để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Với việc bổ sung thêm động cơ phạm tội trong BLHS năm 2015, nhà làm luật đã thể hiện tính cập nhật, tương thích với pháp luật quốc tế cũng như phù hợp với thực tiễn đặt ra.