Một số quyền mới của bị can, bị cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Mở rộng quyền của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra.
Một số quyền mới của bị can, bị cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Mở rộng quyền của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra.
Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là một vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới việc quá trình tiến hành tố tụng. Trước kia bị can, bị cáo mặc nhiên bị coi là có tội, nên quyền của họ bị thu hẹp rất nhiều. Nhưng với bộ luật Tố tụng hình sự mới năm 2015 thì đã có những sửa đổi so với bộ luật Tố tụng hình sự 2003, không những quy định cụ thể, rõ ràng hơn mà còn mở rộng quyền của bị can, bị cáo giúp đảm bảo tính công bằng trong việc thực thi pháp luật hình sự.
Thứ nhất, đối với bị can:
Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về bị can thì:
"1. Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị can có quyền:
a) Được biết lý do mình bị khởi tố;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;
k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng."
Có thể thấy, bị can là cá nhân hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự. Và theo quy định trên thì bị can có một số quyền mới sau:
Một là, quyền “được biết lý do mình bị khởi tố”. Bị can cần phải biết họ bị khởi tố về tội gì, và tại sao mình lại bị khởi tố, không có quyền đó thì họ không thể thực hiện được quyền bào chữa của mình. Việc giải thích cho bị can lý do cũng chính là để bị can nắm bắt được thông tin, chủ động trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình. Trách nhiệm giải thích cho bị can trong trường hợp này thuộc về cơ quan điều tra, viện kiểm sát.
Hai là, quyền được “trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;”. Sau khi đưa ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, để có thể tự gỡ tội cho mình hoặc dùng làm tình tiết giảm nhẹ, bị can có quyền trình bày ý kiến của mình về những vật đó, và nếu cần thiết có thể yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá về tính xác thực, đúng đắn của những vật này. Điều này giúp cho bị can có thể tự chứng minh được mình vô tội và giúp cho quá trình điều tra được nhanh chóng cũng như sự thật của vụ án được làm sáng tỏ.
Ba là, quyền “đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;” – đây là một trong những quyền quan trọng của bị can, và được đánh giá là thiết thực nhất. Một số quan điểm cho rằng trong tình hình hiện nay, với trình độ tổ chức và cán bộ điều tra, hoạt động điều tra chưa đảm bảo một cách đầy đủ, toàn diện và khách quan, vì vậy nếu cho bị can xem xét tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội thì họ sẽ tìm cách chối tội hoặc cản trở công tác điều tra. Trên cơ sở đó, họ cho rằng chỉ nên cho bị can biết bản kết luận điều tra sau khi kết thúc điều tra.
Tuy nhiên, điều quan trọng là cần phải bảo đảm cho bị cáo xem xét tất cả những tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội cũng như việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra để cho bị can biết mình bị buộc tội gì và bằng những chứng cứ nào. Từ đó mà bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa của mình. Bị can được xem xét tài liệu sẽ giúp cho việc khắc phục những thiếu sót và không đầy đủ trong quá trình điều tra cũng như việc tiến hành điều tra được khách quan và toàn diện. Nếu như cơ quan điều tra đã thu thập đầy đủ chứng cứ để buộc tội thì không có lý do gì họ lại phải sợ bị can xem xét những tài liệu đó. Điều này càng làm cho điều tra viên có trách nhiệm hơn trong quá trình tiến hành điều tra vụ án.
Thứ hai, đối với bị cáo:
Theo quy định tại Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về quyền của bị cáo thì:
"1. Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị cáo có quyền:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tòa;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật."
Vậy bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án đưa ra xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã bổ sung một chủ thể mới của cả bị can và bị cáo đó là pháp nhân, vệc bổ sung này là dựa trên nhu cầu của thực tiễn trong đó những tổ chức là pháp nhân thường có những hành vi phạm tội về các vấn đề như môi trường, thuế, chứng khoán, bảo hiểm…mà Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không có chế tài xử lý đối với pháp nhân mà chỉ áp dụng hình thức xử lý hành chính nên dẫn tới việc bỏ lọt tội phạm. Việc quy định thêm chủ thể là pháp nhân đã khắc phục được những hạn chế này.
Theo đó bị cáo có những quyền mới sau:
Một là, quyền được “trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;”
Hai là, quyền “đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;”. Việc đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa sẽ làm tăng tính chủ động cho bị cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình được tốt hơn, việc hỏi cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa sẽ là căn cứ quan trọng làm cho việc xét xử được khách quan hơn cũng như tăng tính thuyết phục hơn.
Ba là, quyền được “xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa”. Để tránh việc sai, cũng như thiếu sót trong quá trình ghi chép lại quá trình diễn ra phiên tòa thì bị cáo có quyền xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi bổ sung vào biên bản đó, điều này đồng nghĩa với việc bị cáo đồng ý với quá trình xét xử nếu không có những yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi khác.
Đồng thời, theo điểm o khoản 2 Điều 61 thì bị cáo còn có một số quyền khác theo quy định của Luật, những quyền này sẽ được thể hiện rõ sau khi các văn bản hướng dẫn có hiệu lực.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Như vậy, có thể thấy vấn đề mở rộng quyền của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra có ảnh hưởng rất lớn tới công tác điều tra và nâng cao trách nhiệm của người tiến hành điều tra, kiểm sát điều tra, xét xử. Không nên coi việc mở rộng quyền cho bị can, bị cáo là làm yếu cuộc đấu tranh chống tội phạm. Điều tra viên cần sử dụng mọi kỹ năng để thu thập những chứng cứ buộc tội và gỡ tội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo, Tòa án cần thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình đảm bảo tính công bằng, đúng đắn, chính xác trong quá trình xét xử.