Gần đây, số lượng bản án về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất có xu hướng tăng. Dưới đây là một số bản án tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất.
Mục lục bài viết
1. Bản án về tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề số 140/2021/DSPT:
Theo án sơ thẩm và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì nội dung vụ kiện như sau:
Theo nguyên đơn trình bày:
Năm 1987, nguyên đơn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Phạm Văn B, nguyên đơn được UBND tỉnh Cần Thơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00096 ngày 10/7/1997 tại thửa đất số 01, tờ bản đồ số 03 có diện tích 416m2. Khi đo đạc diện tích đất của nguyên đơn giảm còn 362,2m2. Nguyên đơn phát hiện bị đơn ông Lê Đình T và bà Lý Thị Y lấn chiếm đất của nguyên đơn có diện tích 53,8m2. Nay nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn trả lại cho nguyên đơn phần đất có diện tích 53,8m2 tọa lạc tại phường T, quận B, thành phố Cần Thơ. Và khởi kiện bổ sung yêu cầu bị đơn trả phần đất diện tích 0,2m x 47,53m = 9,5m2. Phần đất này nằm ngoài đất của nguyên đơn, hiện nay bị đơn đang sử dụng. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án công nhận phần đất 9,5m2 là của nguyên đơn
Theo bị đơn trình bày:
Năm 2009, bị đơn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Văn T diện tích 2.199,3m2, bị đơn sử dụng đúng diện tích. Nguyên đơn sử dụng diện tích tăng lên 161m2, vị trí đất nguyên đơn sử dụng được cấp sai vị trí, sai hình dáng thửa đất sử dụng thực tế so với diện tích đất theo giấy chứng nhận. Năm 1997 chưa có lộ giới nhưng nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00096 ngày 10/7/1997 là không đúng với quá trình sử dụng đất của nguyên đơn từ năm 1997 đến nay. Bị đơn không lấn chiếm đất nên không đồng ý trả lại đất cho nguyên đơn.
Người làm chứng ông Phạm Văn B trình bày:
Khoảng năm 1982, ông có mua thửa đất của bà K nhưng không nhớ cụ thể diện tích là bao nhiêu. Sau đó, ông bán toàn bộ diện tích đất lần lượt cho 05 người khác nhau, cụ thể như sau: Ông có 18,2m chiều ngang mặt tiền đường giáp quốc lộ 91B nay là đường L. Ông bán lần lượt từ trái qua phải cho gia đình ông Đ ngang 6m kéo dài hết phần đất vườn của ông, kế tiếp ông để lại lối đi 1,2m ngang kéo dài đến phần đất vườn phía trong ông bán cho ông Nguyễn Văn T, kế tiếp ông bán cho gia đình ông Lê Đình T 4,5m bề ngang kéo dài đến đất vườn của ông bán cho gia đình ông Phạm Văn N 4,5m ngang kéo dài đến phần đất vườn của ông Nguyễn Văn T; kế tiếp ông bán 2,0m ngang là mương nước cho gia đình ông Nguyễn Duy K kéo dài đến phần đất vườn của ông Nguyễn Văn T. Ông bán đất cho gia đình ông Đ vào khoảng năm 1987. Ông bán đất cho gia đình ông Đ vào khoảng năm 1987; Bán đất cho gia đình ông Lê Đình T, ông N vào năm 1994. Những lần mua bán trên được lập biên bản viết tay, sau đó có xác nhận của chính quyền địa phương. Nay ông xác định giữa phần đất của gia đình ông Đ bà Ngọ với gia đình ông Lê Đình T là đất của ông có chiều ngang 1,2m kéo dài đến hết phần đất vườn của ông Nguyễn Văn T. Tuy nhiên, ông không yêu cầu khởi kiện độc lập.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn 15,7m2 đối với phần đất nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 9,5m2 đối với phần đất ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Bị đơn không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn. Bị đơn có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn và yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại cho quá trình tham gia tố tụng từ khi nguyên đơn khởi kiện bị đơn đến nay. Tuy nhiên, các yêu cầu này, khi nhận thấy cần thiết, bị đơn sẽ khởi kiện thành vụ kiện khác.
Vụ việc được hòa giải nhưng không thành nên đưa ra xét xử, tại bản án sơ thẩm số: 30/2019/DS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2019 của Toà án nhân dân quận B đã tuyên như sau:
Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Tuấn D về việc yêu cầu bị đơn ông Lê Đình T, bà Lý Thị Y trả lại cho nguyên đơn diện tích 15,7m2 tọa lạc tại phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí thẩm định, định giá và quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 04/11/2019 các nguyên đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn; đến ngày 06/11/2019: các bị đơn cũng có đơn kháng cáo yêu cầu hủy giấy chứng nhận đã cấp cho nguyên đơn; thu hồi phần đất dư và bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho quá trình tham gia tố tụng từ khi nguyên đơn khởi kiện bị đơn đến nay.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện nguyên đơn trình bày: Cho đến nay phía nguyên đơn có thay đổi một phần yêu cầu kháng cáo, ông cho rằng người đại diện ở cấp sơ thẩm chỉ yêu cầu 15,7m2 là chưa chính xác, nay qua phân tích của Hội đồng xét xử, ông đề đề nghị rút lại phần tranh chấp tại vị trí A và C do đất tranh chấp nằm ngoài giấy chứng nhận và cần thiết làm các thủ tục liên quan nên sau này nguyên đơn sẽ khởi kiện lại sau. Nay đại diện nguyên đơn các bị đơn trả lại toàn bộ phần diện tích chỉ yêu cầu tranh chấp tại vị trí B theo diện tích đo đạc thực tế là 28,8m2.
Theo lược đồ giải thửa năm 1995 đã thể hiện ghi nhận đường L sau đó mới đến đất của nguyên đơn. Phần diện tích nhà nước thu hồi nguyên đơn mới được cấp giấy chứng nhận và chính ông Bình chủ gốc đất cũ đã xác định giáp hai thửa đất là lối đi 1,2 m dành cho ông Nguyễn Văn T đi ra phía sau đất không được sang bán, và phía gia đình bị đơn đã sử dụng đất này.
Vì vậy, yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn tại vị trí B để sửa án sơ thẩm, buộc các bị đơn giao trả lại phần đất tại vị trí này.
*Quan điểm của luật sư Nguyễn B, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn.
Nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện nhiều lần nay chỉ tranh chấp tại vị trí B.
Thời điểm nguyên đơn đi đăng ký quyền sử dụng đất tại vị trí A hai bên đã sử dụng và xác lập, theo đó ông Bình chừa 1,2 m làm lối đi ra phần đất phía sau cho ông Nguyễn Văn T; và khi đó chính ông Nguyễn Văn T là người ký giáp ranh với nguyên đơn. Đến khi bị đơn chuyển nhượng đất này, chính ông Đ là người ký giáp ranh. Năm 1988, nguyên đơn chuyển nhượng đất và sau đó có một phần đất bị Nhà nước thu hồi, giải tỏa, nguyên đơn đã nhận được tiền bồi thường nên nay cho rằng thiếu đất là không có căn cứ. Năm 2014, khi phát sinh tranh chấp tại địa phương nguyên đơn cũng không tranh chấp đến 2015 mới khởi kiện tại Tòa án. Theo sơ đồ thửa đất mà Ủy ban cấp cho nguyên đơn không thẳng từ trước ra sau. Phần đất phía sau là mương thoát nước; nguyên đơn kiện theo diện tích đất cấp cũ là không có căn cứ thuyết phục. Đề nghị bác yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Đối với kháng cáo của bị đơn, bị đơn rút lại yêu cầu kháng cáo này.
* Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ:
Về thực hiện pháp luật: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của BLTTSD kể từ khi thụ lý đến khi xét xử theo trình tự phúc thẩm. Các đương sự trong vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đối với người tham gia tố tụng. Đơn và thời hạn nộp tạm ứng kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn trong hạn luật định nên được xem là hợp lệ về mặt hình thức.
Về nội dung kháng cáo:
Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà hôm nay thể hiện phần đất nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại có diện tích 28,8m2 tọa lạc tại phường T, quận B, thành phố Cần Thơ thửa đất số 01, tờ bản đồ số 03 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00096 ngày 10/7/1997.
Xét nguồn gốc đất của ông Đ mua từ ông Phạm Văn B với diện tích ngang 6m chiều dài hết phần đất khoảng 59,4m, sau đó ông mua thêm của ông Nguyễn Văn T ngang 01m dài hết đất. Ông Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích ngang 7m, chiều dài 59,4m tổng diện tích 416m2, khi tiến hành đo đạc thực tế phần đất ông Đ còn 386.3m2, phần còn thiếu là 29,7m2 . Căn cứ vào Bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021 thể hiện phần đất của ông Nguyễn Văn Đ khi đo thực tế có chiều ngang 7,10m, trong khi thực tế ông Đ chỉ mua 7m chiều ngang nên phần đất tranh chấp ở điểm này nằm ở phần 1,2m của ông Bình dùng làm lối đi chung. Đối với phần đất của ông Lê Đình T cũng dư so với giấy chứng nhận ban đầu được cấp là 1005,7m2, đo đạc thực tế là 1006,3m2. Nguyên nhân phần đất của nguyên đơn và bị đơn đều tăng là do còn một phần đất của ông Bình dùng làm lối đi có diện tích 1,2m nên cả hai bên đều sử dụng phần lối đi này. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn rút lại đơn khởi kiện phần đất tranh chấp ở vị trí A và C, chỉ tranh chấp ở vị trí B. Xét về hình thể giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn thấy rằng đối với phần đất tranh chấp ở vị trí B có diện tích 28,8m2 nằm ở vị trí phía sau phần đất của nguyên đơn đúng với hình thể thửa đất của ông Đ và nếu cộng phần đất tranh chấp tại vị trí này thì diện tích đất của nguyên đơn cơ bản đủ so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp nên có căn cứ để công nhận phần đất tranh chấp ở vị trí B cho nguyên đơn.
Đối với phần cây trồng trên đất, nguyên đơn để cho bị đơn trồng cây mà không ngăn cản nên khi bị đơn trả lại phần đất tranh chấp thì nguyên đơn có trách nhiệm bồi thường giá trị đối với 01 cây xoài loại A, 01 cây khế loại A, 03 cây chuối loại A, 03 cây loại B và 01 cây mãng cầu loại C. Đối với phần cát bom trên diện tích đất tranh chấp các bên không chứng minh được số tiền đầu tư và cũng không yêu cầu trong vụ kiện này nếu sau này phát sinh tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút lại phần yêu cầu kháng cáo đây là sự tự nguyên, nên đề nghị chấp nhận. Do đó kháng cáo của nguyên đơn có sơ sở chấp nhận 01 phần và đình chỉ 01 phần đối với yêu cầu nguyên đơn tự nguyện rút.
Đối với bị đơn luật sư bị đơn cũng xác định không yêu cầu, rút lại phần kháng cáo nên chấp nhận đình chỉ yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
Đề nghị: áp dụng khoản 2 Điều 308 và Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa một phần bản án dân sự của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Cần Thơ theo hướng công nhận phần đất tranh chấp ở vị trí B có diện tích 28,8m2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn, đình chỉ 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đình chỉ đối với kháng cáo của bị đơn do rút yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại tòa phúc thẩm; Căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên; những người tham gia tố tụng khác.
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả quyền sử dụng đất giáp ranh với bị đơn nên Tòa án nhân dân quận B giải quyết và xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề là phù hợp theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật dân sự 2015 và khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Sau khi xét xử sơ thẩm, cả nguyên đơn và bị đơn đều có kháng cáo. Xét thấy, đơn các kháng cáo đúng quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Để xét nội dung kháng cáo cần đánh giá tính khách quan, toàn diện của hồ sơ, cấp phúc thẩm lần lượt xem xét toàn bộ các chứng cứ có liên quan để xem xét. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, diện tích đất nguyên đơn có thay đổi nhiều lần. Theo hồ sơ thể hiện tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả phần đất có diện tích 15,7m2 nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn và 9,5m2 nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Tuy nhiên, nguyên đơn cho rằng người đại diện đã không thực hiện đúng yêu cầu họ đã ủy quyền và tại phiên tòa phúc thẩm xác định yêu cầu bị đơn trả phần đất diện tích thực tế 28,8m2 tại vị trí B theo bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021.
[4] Quá trình giải quyết ở giai đoạn phúc thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ tiến hành thẩm định ngày 24/11/2020 và có Bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ. Theo đó, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả phần đất diện tích thực tế 28,8m2 tại vị trí B theo bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021. Xét thấy, phần yêu cầu của đại diện nguyên đơn vẫn thuộc phạm phạm vi đã khởi kiện, đã được cấp sơ thẩm và phúc thẩm đo đạc và ghi nhận hiện trạng thực tế theo vị trí đã khởi kiện tại phường T, quận B, thành phố Cần Thơ thửa đất số 01, tờ bản đồ số 03 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00096 ngày 10/7/1997. Do đó, cấp phúc thẩm tiếp tục xem xét với yêu cầu này của nguyên đơn.
[5] Về nguồn gốc: Phần đất của ông Nguyễn Văn Đ và bà Trương Thị Thanh N mua từ ông Phạm Văn B với diện tích ngang 06m chiều dài hết phần đất khoảng 59,4m, sau đó ông mua thêm của ông Nguyễn Văn T ngang 01m dài hết đất. Ông Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích ngang 7m, chiều dài 59,4m tổng diện tích 416m2, khi tiến hành đo đạc thực tế phần đất ông Đ còn 386,3m2, phần còn thiếu là 29,7m2. Căn cứ vào Bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021 thể hiện phần đất của ông Nguyễn Văn Đ khi đo thực tế có chiều ngang 7,10m, trong khi thực tế ông Đ chỉ mua 7m chiều ngang nên phần đất tranh chấp ở điểm này nằm ở phần 1,2m của ông Bình dùng làm lối đi chung. Đối với phần đất của ông Lê Đình T cũng dư so với giấy chứng nhận ban đầu được cấp. Nguyên nhân phần đất của nguyên đơn và bị đơn đều tăng là do còn một phần đất của ông Bình dùng làm lối đi có diện tích 1,2m nên cả hai bên đều sử dụng phần lối đi này. Đây là sự thừa nhận của các bên đương sự. Phần đất này tại ví trí A các bên cũng không tranh chấp nên cũng không đặt ra xem xét.
[6] Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút lại đơn khởi kiện phần đất tranh chấp ở vị trí A và C theo Bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ. Đây là sự tự nguyện của đương sự, không trái quy định của pháp luật nên chấp nhận đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn đối với phần rút này theo quy định tại khoản 2 Điều 244 và khoản 3 Điều 289 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Chỉ xem xét đánh giá đối với phần phần tranh chấp giữa các bên tại vị trí B.
Do vị trí tranh chấp các bên có thay đổi vị trí tranh chấp và lời khai các bên cũng khác nhau về các loại cây trồng trên đất và cấp sơ thẩm chưa thực hiện kiểm tra nên cấp phúc thẩm đã thực hiện kiểm tra tại giai đoạn phúc thẩm vào ngày 24/11/2020 và ngày 16/6/2021.
[7] Thấy rằng: xét về hình thể giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn thì đối với phần đất tranh chấp ở vị trí B có diện tích 28,8m2 nằm ở vị trí phía sau phần đất của nguyên đơn đúng với hình thể thửa đất mà nguyên đơn đã yêu cầu và nếu cộng phần đất tranh chấp tại vị trí B thì diện tích đất của nguyên đơn cơ bản đủ so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp nên có căn cứ để công nhận phần đất tranh chấp ở vị trí B cho nguyên đơn. Hai bên đương sự đều thừa nhận diện tích ranh đất từ mặt tiền chạy thẳng đến thâm hậu là đường thẳng, nhưng rõ rằng vị trí B mà phía gia đình bị đơn sử dụng đã lấn hẳn sang phía sau đất của gia đình nguyên đơn.
[8] Đối với phần cây trồng trên đất, nguyên đơn để cho bị đơn trồng cây mà không ngăn cản nên khi bị đơn trả lại phần đất tranh chấp thì nguyên đơn có trách nhiệm bồi thường giá trị đối với 01 cây xoài loại A, 01 cây khế loại A, 03 cây chuối loại A, 03 cây loại B và 01 cây mãng cầu loại C. Riêng phần hàng rào mà gia đình bị đơn rào chắn thì buộc các bị đơn tháo dỡ. Ngoài ra, đối với phần cát bom trên diện tích đất tranh chấp các bên không chứng minh được số tiền đầu tư và cũng không yêu cầu trong vụ kiện này nếu sau này phát sinh tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
[9] Do đó kháng cáo của nguyên đơn có sơ sở chấp nhận 01 phần và đình chỉ 01 phần đối với yêu cầu nguyên đơn tự nguyện rút.
[10] Đối với luật sư bị đơn cũng xác định không yêu cầu, rút lại phần kháng cáo nên chấp nhận đình chỉ yêu cầu kháng cáo của các bị đơn.
[11] Theo Quyết định số 10/QĐ-UBND ngày 27 tháng 6 năm 2019 của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ quy định đơn giá nhà, công trình, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi. Xoài loại A có giá 1.405.000đồng/cây; Khế loại A có giá 675.000đồng/cây; Chuối loại A có giá 110.000đồng/cây; Chuối loại B có giá 60.000đồng/cây; Mãng cầu loại C có giá 210.000đồng/cây Do đó, nguyên đơn có trách nhiệm bồi thường cho bị đơn giá trị cây trồng như đã phân tích trên với tổng số tiền: 1.405.000đồng + 675.000đồng + (110.000đồng x 3) + (60.000đồng x 3) + 210.000đồng = 2.800.000đồng.
[12] Từ những phân tích cụ thể nêu trên, có căn cứ để chấp nhận một phần kháng của nguyên đơn và Đối với luật sư bị đơn cũng xác định không yêu cầu, rút lại phần kháng cáo nên chấp nhận đình chỉ yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Sửa một phần bản án sơ thẩm.
[13] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát như đã nêu trên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên đề nghị của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận. Quan điểm của luật sư bảo vệ cho bị đơn là chưa có căn cứ thuyết phục nên không chấp nhận [14] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên nguyên đơn không phải chịu, kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Về chi phí đo đạc, thẩm định và định giá tài sản: tại giai đoạn phúc thẩm: Lần 1 là 6.866.000đồng và lần 2 là 2.600.000đồng đều do nguyên đơn đóng tạm ứng. Bị đơn phải chịu nên bị đơn có nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn số tiền 9.466.000đồng.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
Khoản 2 Điều 308; khoản 2 Điều 244 và điểm b, c khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016.UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn;
Đình chỉ một phần khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn. Đình chỉ yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
Sửa bản án sơ thẩm.
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, Nguyễn Thị Vân Anh và Nguyễn Tuấn D về yêu cầu bị đơn ông Lê Đình T và bà Lý Thị Y.
2/ Buộc bị đơn ông Lê Đình T và bà Lý Thị Y có trách nhiệm giao trả phần đất cho ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Vân Anh và ông Nguyễn Tuấn D diện tích đất đo đạc thực tế 28,8m2 tại vị trí (B) và tháo dỡ phần hàng rào trên đất theo Bản trích đo địa chính số 09/TTKTTNMT03 ngày 18/01/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ.
Ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Vân Anh và ông Nguyễn Tuấn D được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật về đất đai.
Ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Vân Anh và ông Nguyễn Tuấn D phải trả giá trị cây trồng cho ông Lê Đình T và bà Lý Thị Y với tổng số tiền 2.800.000đồng (Hai triệu tám trăm nghìn đồng.) Đối với phần cát bom trên diện tích đất tranh chấp các bên không chứng minh được số tiền đầu tư và cũng không yêu cầu trong vụ kiện này nếu sau này phát sinh tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
(Kèm bản trích đo địa chính số 09/TTKTTNMT03 ngày 18/01/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ)
3/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm Nguyên đơn được nhận lại 524.000đồng (Năm trăm hai mươi bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số 006831 ngày 17/10/2016 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Cần Thơ.
4/ Về chi phí tố tụng khác :
Chi phí đo đạc định giá giai đoạn sơ thẩm là 18.653.000đồng do nguyên đơn đóng tạm ứng; Bị đơn phải chịu nên bị đơn có trách nhiệm trả là cho nguyên đơn số tiền 18.653.000đồng.( Mười tám triệu, sáu trăm năm mươi ba nghìn đồng) Chi phí đo đạc định giá giai đoạn phúc thẩm: Tổng tiền thẩm định và định giá là 9.466.000đồng do nguyên đơn đóng tạm ứng. Bị đơn phải chịu nên bị đơn có nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn 9.466.000đồng (Chín triệu, bốn trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
5/ Về án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyên đơn không phải chịu án phí phúc thẩm nên nguyên đơn được nhận lại 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 004142 ngày 04/11/2019 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Cần Thơ.
Bị đơn phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 004147 ngày 06/11/2019 của Chi Cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Cần Thơ. Bị đơn đã thực hiện xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/10/2021) Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
2. Bản án về tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề số 66/2021/DS-PT:
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Phía nguyên đơn trình bày:
Cha của các nguyên đơn là ông Phạm Thanh P4 đại diện hộ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000444 ngày 22/01/1999, thửa 154, tờ bản đồ số 13, diện tích 1.560m2 (CLN + ONT) tọa lạc ấp Q, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ.
Liền kề thửa 154 là thửa 157, diện tích 2.759m2 do ông Nguyễn Tấn P1 và bà Huỳnh Thị T2 (chết) đứng tên giấy, nhưng người trực tiếp sử dụng là ông Huỳnh T và bà Nguyễn Thị Mỹ H.
Quá trình sử dụng ông T, bà H đã lấn chiếm qua thửa 154 nên các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại diện tích lấn chiếm là 137m2. Nhưng sau khi đo đạc thực tế, chỉ yêu cầu trả diện tích lấn chiếm là 48m2, rút lại yêu cầu đối với diện tích 89m2. Do thửa đất 157 hộ ông P1, bà T2 đứng tên trên giấy, nên các nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông T, bà H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông P1, bà Nguyễn Thị Lan H3, bà Nguyễn Mộng S, bà Nguyễn Thị Hồng P2, bà Nguyễn Thị Lan A1, bà Nguyễn Lệ P3 cùng có trách nhiệm trả lại diện tích đất lấn chiếm.
* Phía bị đơn trình bày:
Bà cùng chồng là ông T đang quản lý sử dụng thửa đất 157, diện tích 2.795m2 theo giấy chứng nhận số H00858 ngày 12/10/2007 do hộ ông Nguyễn Tấn P1, bà Huỳnh Thị T2 (chết) đứng tên. Ranh giữa hai thửa đất trước đây có cái mương, nhưng hiện nay đã lấp không còn hiện trạng như trước nữa.
Vợ chồng bà quản lý sử dụng hơn 30 năm nay và chỉ sử dụng trong phần diện tích thửa 157 theo giấy đất đã cấp, không lấn chiếm qua thửa 154 của các nguyên đơn, ranh mốc giữa hai thửa đất đã được xác định ổn định nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn. Theo bà thì việc tranh chấp này trước đây đã được Tòa án huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ giải quyết xong bằng Quyết định đình chỉ số: 343/QĐ.ĐC.DS ngày 20/6/2001 đã có hiệu lực pháp luật, nên yêu cầu Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Bà Dương Thị H1, ông Trần Văn A., chị Trần Thị Thanh H2, anh Nguyễn Thanh T1: Vào năm 1998 bà Hồng, ông Ân có nhận chuyển nhượng 550m2 đất tại thửa 154, để xây dựng nhà vợ chồng con cái cùng ở nhưng chưa sang tên. Các đương sự không có ý kiến hay yêu cầu gì về tranh chấp này.
+ Bà Nguyễn Thị Lan H3, Nguyễn Mộng S, Nguyễn Thị Hồng P2, Nguyễn Thị Lan A1, Nguyễn Lệ P3, Ông Nguyễn Tấn P1: thống nhất ý kiến của bị đơn.
+ Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Thạnh ý kiến: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000444 ngày 22/10/1999 (thửa 154) cho hộ ông Phạm Thanh P4; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00858 ngày 12/10/2007 (thửa 157) cho hộ ông Nguyễn Tấn P1 và vợ Huỳnh Thị T2 là đúng đối tượng và trình tự thủ tục. Còn việc vì sao bà T2 đã chết mà vẫn còn ghi tên trong giấy chứng nhận là do tại thời điểm cấp giấy, sổ hộ khẩu kèm theo hồ sơ vẫn còn tên của bà T2. Tuy nhiên, sau khi phát sinh tranh chấp, chứng cứ do các bên cung cấp tại Tòa án mới cho thấy bà T2 chết vào năm 2006, nhưng việc đó không ảnh hưởng đến nội dung tranh chấp của các bên. Nếu quá trình giải quyết vụ án, xét thấy việc thu hồi giấy chứng nhận là cần thiết thì Tòa án vẫn có quyền đề nghị UBND huyện thu hồi theo quy định tại khoản 2 Điều 106
Vụ việc hòa giải không thành nên Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh đưa ra xét xử; tại Bản án sơ thẩm số: 54/2020/DS-ST ngày 25/12/2020 đã tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc “Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề” đối với diện tích đất 48m2 (thửa 154, tờ bản đồ số 13, tại ấp Q, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ đối với bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ thể:
1. Buộc bị đơn ông Huỳnh T, bà Nguyễn Thị Mỹ H và người có liên quan ông Nguyễn Tấn P1, bà Nguyễn Thị Lan H3, Nguyễn Mộng S, Nguyễn Thị Hồng P2, Nguyễn Thị Lan A1, Nguyễn Lệ P3 phải di dời toàn bộ tài sản giao trả diện tích 48m2 (CLN + ONT) thuộc thửa 154, tờ bản đồ số 13, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000444 ngày 22/01/1999 do ông Phạm Thanh P4 đại diện hộ đứng tên quyền sử dụng đất, tọa lạc ấp Q, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ cho các nguyên đơn ông Phạm Thanh V, bà Phạm Thị Mỹ Th, Phạm Thị Mỹ C, Phạm Thị Mỹ Hà.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía bị đơn trả lại diện tích đất 89m2, tờ bản đồ số 13, thuộc thửa đất số 154 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000444 ngày 22/01/1999 do ông Phạm Thanh P4 đại diện hộ đứng tên.
(Căn cứ vào biên bản định giá ngày 25/6/2013, bản mô tả ranh giới, mốc giới địa chính ngày 25/6/2013, mảnh trích đo địa chính số 348/2016 có xác nhận của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai ngày 24/8/2016, biên bản xem xét thẩm định tại chổ ngày 04/6/2020 và trích bản vẽ ngày 03/12/2020 của Hội đồng xét xử để xác định vị trí, kích thước, diện tích phần đất giao trả và các tài sản trên phần đất giao trả để di dời) Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí thẩm định, định giá tài sản và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 05/01/2021 bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H kháng cáo yêu cầu phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà không đồng ý trả 48m2 đất và số tiền 7.455.000đ cho nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có kháng cáo xác định vẫn giữ yêu cầu kháng cáo; nguyên đơn vẫn giữ ý kiến như đã trình bày tại phiên tòa sơ thẩm.
Kiểm sát viên phúc thẩm phát biểu ý kiến: đương sự và Tòa án đã thực hiện đúng quy định về pháp luật tố tụng dân sự; Về nội dung: theo các tài liệu chứng cứ thể hiện bị đơn sử dụng đất vượt quá diện tích được cấp giấy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại phần đất lấn chiếm là có căn cứ. Bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp thêm được tài liệu chứng cứ chứng minh nên đề nghị bác kháng cáo, giữ y án sơ thẩm.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
* Về thủ tục tố tụng:
[1] Nguyên đơn khởi kiện cho rằng bị đơn là người sử dụng đất liền kề đã lấn chiếm đất của nguyên đơn phần cặp ranh là 48m2. Cấp sơ thẩm xác định “Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề” theo khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự là có căn cứ.
Những người có liên quan đến nội dung kháng cáo phía bị đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, phiên tòa phúc thẩm vẫn tiến hành theo quy định.
* Về nội dung: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn kháng cáo yêu cầu bác khởi kiện của nguyên đơn. Xét kháng cáo thấy rằng, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ thể hiện:
[2] Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000444 ngày 22/01/1999 của phía nguyên đơn được cấp (thửa 154) có diện tích 1.560m2 (chưa tính diện tích phạm hành lang lộ giới). Đối chiếu kết quả đo đạc ngày 25/6/2013 và Mảnh trích đo địa chính số 348/2016 ngày 24/8/2016. thể hiện nguyên đơn đang sử dụng 1.424m2 (chưa tính diện tích phạm hành lang lộ giới). Như vậy, thực tế phía nguyên đơn đang sử dụng thiếu 136m2 so với diện tích trong giấy.
Còn theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00858 ngày 12/10/2007 của phía bị đơn được cấp (thửa 157) có diện tích 2.795m2 (bao gồm diện tích phạm hành lang lộ giới 439m2). Đối chiếu kết quả đo đạc ngày 25/6/2013 và Mảnh trích đo địa chính số 348/2016 ngày 24/8/2016. thể hiện: bị đơn đang sử dụng diện tích 2.550m2 (chưa tính diện tích phạm hành lang lộ giới hiện tại 426m2). Nếu tính cả diện tích phạm hành lang lộ giới, thì tổng diện tích bị đơn thực tế đang sử dụng là 2.976m2 dư so với diện tích trong giấy 180m2. Trường hợp không tính diện tích phạm hành lang lộ giới tại thời điểm cấp giấy là 439m2 so với đo đạc hiện tại là 426m2 thì thửa 157 vẫn dư 167m2.
[3] Mặt khác, nếu so sánh kích thước của Bản vẽ trích đo địa chính ngày 01/8/2007 của Văn phòng ĐKQSDĐ huyện Vĩnh Thạnh thời điểm lập hồ sơ cấp giấy thửa 157, thì chiều ngang hậu giáp Kinh thủy lợi là 45,5m. Thế nhưng theo kết quả đo đạc thực tế tại Mảnh trích đo địa chính ngày 24/8/2016 của Chi nhánh VPĐKĐĐ huyện Vĩnh Thạnh thể hiện số đo là 45,73m (tính cả phần tranh chấp). Như vậy phần chiều ngang dư 0,23m, có một phần chiều dài tính từ Quốc lộ 80 đến Kinh thủy lợi và một phần chiều ngang giáp thửa 157 – 154.
Bên cạnh đó, lược đồ của hai thửa 154 và 157 tại thời điểm cấp giấy thể hiện ranh giữa hai thửa đất là một đường thẳng, còn theo Mảnh trích đo địa chính ngày 24/8/2016 là đường gấp khúc. Do đó cấp sơ thẩm xác định một phần dư này nằm trong thửa 154 của phía nguyên đơn và buộc bị đơn là người đang trực tiếp sử dụng đất cùng những người liên quan phía bị đơn có trách nhiệm trả lại phần diện tích lấn chiếm 48m2 cho nguyên đơn là có căn cứ.
[4] Về nội dung kháng cáo không đồng ý chịu án phí và chi phí đo đạc. Xét do nguyên đơn khởi kiện có căn cứ và được chấp nhận yêu cầu, nên bị đơn phải chịu án phí và chi phí tố tụng khác là đúng quy định pháp luật.
Kháng cáo của bị đơn không có căn cứ nên không được chấp nhận.
Quan điểm của Kiểm sát viên phúc thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí phúc thẩm: Ông P1 là người cao tuổi nên được miễn, các đương sự khác phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 9 Điều 26, 148, khoản 2 Điều 296, khoản 2 Điều 244, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự ; Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 166, 203 Luật Đất đai 2013 ; Pháp lệnh án phí, lệ phí Toàn án 2009; điểm đ khoản 1 Điều 12, 29, 48 Nghi quyết 326/2016/UBTVQH/2014.
Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1/- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
Buộc bị đơn ông Huỳnh T, bà Nguyễn Thị Mỹ H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía bị đơn ông Nguyễn Tấn P1, bà Nguyễn Thị Lan H3, Nguyễn Mộng S, Nguyễn Thị Hồng P2, Nguyễn Thị Lan A1, Nguyễn Lệ P3 phải di dời toàn bộ tài sản giao trả lại diện tích đất 48m2 (CLN + ONT) thuộc thửa 154, tờ bản đồ số 13, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000444 ngày 22/01/1999 do ông Phạm Thanh P4 đại diện hộ đứng tên cho các nguyên đơn Phạm Thanh V, Phạm Thị Mỹ Th, Phạm Thị Mỹ C, Phạm Thị Mỹ HZ.
(Vị trí, kích thước, diện tích đất giao trả và các tài sản trên đất giao trả theo Biên bản định giá ngày 25/6/2013; Bản mô tả ranh giới, mốc giới địa chính ngày 25/6/2013; Mảnh trích đo địa chính số 348/2016 của Chi nhánh VPĐKĐĐ ngày 24/8/2016; Biên bản xem xét thẩm định tại chổ ngày 04/6/2020 và Trích bản vẽ ngày 03/12/2020 của Hội đồng xét xử Tòa án cấp sơ thẩm).
2/- Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của các nguyên đơn về yêu cầu bị đơn và người có liên quan phía bị đơn trả lại diện tích đất 89m2.
3/- Về án phí: Bị đơn và người liên quan phía bị đơn liên đới chịu 200.000đ án phí sơ thẩm; bà Mỹ H phải chịu 300.000đ án phí phúc thẩm, chuyển số tiền đã nộp tạm ứng án phí kháng cáo theo Biên lai số 016606 ngày 07/01/2021 thành án phí phúc thẩm, đã nộp xong.
Nguyên đơn được nhận lại 1.185.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 006687 ngày 05/01/2013.
4/- Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: 6.070.000đ, bị đơn phải chịu. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng và chi xong nên bị đơn có trách nhiệm trả lại cho nguyên đơn số tiền này tại giai đoạn thi hành án.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dấn sự.
3. Bản án về tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề số 122/2022/DS-PT:
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì nội dung vụ kiện như sau:
Theo nguyên đơn trình bày:
Năm 1987, nguyên đơn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Phạm Văn B, nguyên đơn được UBND tỉnh Cần Thơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00096 ngày 10/7/1997 tại thửa đất số 01, tờ bản đồ số 03 có diện tích 416m2. Khi đo đạc diện tích đất của nguyên đơn giảm còn 362,2m2. Nguyên đơn phát hiện bị đơn ông Lê Đình T và bà Lý Thị Y lấn chiếm đất của nguyên đơn có diện tích 53,8m2. Nay nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn trả lại cho nguyên đơn phần đất có diện tích 53,8m2 tọa lạc tại phường T, quận B, thành phố Cần Thơ. Và khởi kiện bổ sung yêu cầu bị đơn trả phần đất diện tích 0,2m x 47,53m = 9,5m2. Phần đất này nằm ngoài đất của nguyên đơn, hiện nay bị đơn đang sử dụng. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án công nhận phần đất 9,5m2 là của nguyên đơn
Theo bị đơn trình bày:
Năm 2009, bị đơn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Văn T diện tích 2.199,3m2, bị đơn sử dụng đúng diện tích. Nguyên đơn sử dụng diện tích tăng lên 161m2, vị trí đất nguyên đơn sử dụng được cấp sai vị trí, sai hình dáng thửa đất sử dụng thực tế so với diện tích đất theo giấy chứng nhận. Năm 1997 chưa có lộ giới nhưng nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00096 ngày 10/7/1997 là không đúng với quá trình sử dụng đất của nguyên đơn từ năm 1997 đến nay. Bị đơn không lấn chiếm đất nên không đồng ý trả lại đất cho nguyên đơn.
Người làm chứng ông Phạm Văn B trình bày:
Khoảng năm 1982, ông có mua thửa đất của bà K nhưng không nhớ cụ thể diện tích là bao nhiêu. Sau đó, ông bán toàn bộ diện tích đất lần lượt cho 05 người khác nhau, cụ thể như sau: Ông có 18,2m chiều ngang mặt tiền đường giáp quốc lộ 91B nay là đường L. Ông bán lần lượt từ trái qua phải cho gia đình ông Đ ngang 6m kéo dài hết phần đất vườn của ông, kế tiếp ông để lại lối đi 1,2m ngang kéo dài đến phần đất vườn phía trong ông bán cho ông Nguyễn Văn T, kế tiếp ông bán cho gia đình ông Lê Đình T 4,5m bề ngang kéo dài đến đất vườn của ông bán cho gia đình ông Phạm Văn N 4,5m ngang kéo dài đến phần đất vườn của ông Nguyễn Văn T; kế tiếp ông bán 2,0m ngang là mương nước cho gia đình ông Nguyễn Duy K kéo dài đến phần đất vườn của ông Nguyễn Văn T. Ông bán đất cho gia đình ông Đ vào khoảng năm 1987. Ông bán đất cho gia đình ông Đ vào khoảng năm 1987; Bán đất cho gia đình ông Lê Đình T, ông N vào năm 1994. Những lần mua bán trên được lập biên bản viết tay, sau đó có xác nhận của chính quyền địa phương. Nay ông xác định giữa phần đất của gia đình ông Đ bà Ngọ với gia đình ông Lê Đình T là đất của ông có chiều ngang 1,2m kéo dài đến hết phần đất vườn của ông Nguyễn Văn T. Tuy nhiên, ông không yêu cầu khởi kiện độc lập.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn 15,7m2 đối với phần đất nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 9,5m2 đối với phần đất ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Bị đơn không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn. Bị đơn có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn và yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại cho quá trình tham gia tố tụng từ khi nguyên đơn khởi kiện bị đơn đến nay. Tuy nhiên, các yêu cầu này, khi nhận thấy cần thiết, bị đơn sẽ khởi kiện thành vụ kiện khác.
Vụ việc được hòa giải nhưng không thành nên đưa ra xét xử, tại bản án sơ thẩm số: 30/2019/DS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2019 của Toà án nhân dân quận B đã tuyên như sau:
Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Tuấn D về việc yêu cầu bị đơn ông Lê Đình T, bà Lý Thị Y trả lại cho nguyên đơn diện tích 15,7m2 tọa lạc tại phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí thẩm định, định giá và quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 04/11/2019 các nguyên đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn; đến ngày 06/11/2019: các bị đơn cũng có đơn kháng cáo yêu cầu hủy giấy chứng nhận đã cấp cho nguyên đơn; thu hồi phần đất dư và bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho quá trình tham gia tố tụng từ khi nguyên đơn khởi kiện bị đơn đến nay.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện nguyên đơn trình bày: Cho đến nay phía nguyên đơn có thay đổi một phần yêu cầu kháng cáo, ông cho rằng người đại diện ở cấp sơ thẩm chỉ yêu cầu 15,7m2 là chưa chính xác, nay qua phân tích của Hội đồng xét xử, ông đề đề nghị rút lại phần tranh chấp tại vị trí A và C do đất tranh chấp nằm ngoài giấy chứng nhận và cần thiết làm các thủ tục liên quan nên sau này nguyên đơn sẽ khởi kiện lại sau. Nay đại diện nguyên đơn các bị đơn trả lại toàn bộ phần diện tích chỉ yêu cầu tranh chấp tại vị trí B theo diện tích đo đạc thực tế là 28,8m2.
Theo lược đồ giải thửa năm 1995 đã thể hiện ghi nhận đường L sau đó mới đến đất của nguyên đơn. Phần diện tích nhà nước thu hồi nguyên đơn mới được cấp giấy chứng nhận và chính ông Bình chủ gốc đất cũ đã xác định giáp hai thửa đất là lối đi 1,2 m dành cho ông Nguyễn Văn T đi ra phía sau đất không được sang bán, và phía gia đình bị đơn đã sử dụng đất này.
Vì vậy, yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn tại vị trí B để sửa án sơ thẩm, buộc các bị đơn giao trả lại phần đất tại vị trí này.
*Quan điểm của luật sư Nguyễn B, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn.
Nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện nhiều lần nay chỉ tranh chấp tại vị trí B.
Thời điểm nguyên đơn đi đăng ký quyền sử dụng đất tại vị trí A hai bên đã sử dụng và xác lập, theo đó ông Bình chừa 1,2 m làm lối đi ra phần đất phía sau cho ông Nguyễn Văn T; và khi đó chính ông Nguyễn Văn T là người ký giáp ranh với nguyên đơn. Đến khi bị đơn chuyển nhượng đất này, chính ông Đ là người ký giáp ranh. Năm 1988, nguyên đơn chuyển nhượng đất và sau đó có một phần đất bị Nhà nước thu hồi, giải tỏa, nguyên đơn đã nhận được tiền bồi thường nên nay cho rằng thiếu đất là không có căn cứ. Năm 2014, khi phát sinh tranh chấp tại địa phương nguyên đơn cũng không tranh chấp đến 2015 mới khởi kiện tại Tòa án. Theo sơ đồ thửa đất mà Ủy ban cấp cho nguyên đơn không thẳng từ trước ra sau. Phần đất phía sau là mương thoát nước; nguyên đơn kiện theo diện tích đất cấp cũ là không có căn cứ thuyết phục. Đề nghị bác yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Đối với kháng cáo của bị đơn, bị đơn rút lại yêu cầu kháng cáo này.
* Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ:
Về thực hiện pháp luật: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự kể từ khi thụ lý đến khi xét xử theo trình tự phúc thẩm. Các đương sự trong vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đối với người tham gia tố tụng. Đơn và thời hạn nộp tạm ứng kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn trong hạn luật định nên được xem là hợp lệ về mặt hình thức.
Về nội dung kháng cáo:
Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà hôm nay thể hiện phần đất nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại có diện tích 28,8m2 tọa lạc tại phường T, quận B, thành phố Cần Thơ thửa đất số 01, tờ bản đồ số 03 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00096 ngày 10/7/1997.
Xét nguồn gốc đất của ông Đ mua từ ông Phạm Văn B với diện tích ngang 6m chiều dài hết phần đất khoảng 59,4m, sau đó ông mua thêm của ông Nguyễn Văn T ngang 01m dài hết đất. Ông Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích ngang 7m, chiều dài 59,4m tổng diện tích 416m2, khi tiến hành đo đạc thực tế phần đất ông Đ còn 386.3m2, phần còn thiếu là 29,7m2 . Căn cứ vào Bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021 thể hiện phần đất của ông Nguyễn Văn Đ khi đo thực tế có chiều ngang 7,10m, trong khi thực tế ông Đ chỉ mua 7m chiều ngang nên phần đất tranh chấp ở điểm này nằm ở phần 1,2m của ông Bình dùng làm lối đi chung. Đối với phần đất của ông Lê Đình T cũng dư so với giấy chứng nhận ban đầu được cấp là 1005,7m2, đo đạc thực tế là 1006,3m2. Nguyên nhân phần đất của nguyên đơn và bị đơn đều tăng là do còn một phần đất của ông Bình dùng làm lối đi có diện tích 1,2m nên cả hai bên đều sử dụng phần lối đi này. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn rút lại đơn khởi kiện phần đất tranh chấp ở vị trí A và C, chỉ tranh chấp ở vị trí B. Xét về hình thể giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn thấy rằng đối với phần đất tranh chấp ở vị trí B có diện tích 28,8m2 nằm ở vị trí phía sau phần đất của nguyên đơn đúng với hình thể thửa đất của ông Đ và nếu cộng phần đất tranh chấp tại vị trí này thì diện tích đất của nguyên đơn cơ bản đủ so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp nên có căn cứ để công nhận phần đất tranh chấp ở vị trí B cho nguyên đơn.
Đối với phần cây trồng trên đất, nguyên đơn để cho bị đơn trồng cây mà không ngăn cản nên khi bị đơn trả lại phần đất tranh chấp thì nguyên đơn có trách nhiệm bồi thường giá trị đối với 01 cây xoài loại A, 01 cây khế loại A, 03 cây chuối loại A, 03 cây loại B và 01 cây mãng cầu loại C. Đối với phần cát bom trên diện tích đất tranh chấp các bên không chứng minh được số tiền đầu tư và cũng không yêu cầu trong vụ kiện này nếu sau này phát sinh tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút lại phần yêu cầu kháng cáo đây là sự tự nguyên, nên đề nghị chấp nhận. Do đó kháng cáo của nguyên đơn có sơ sở chấp nhận 01 phần và đình chỉ 01 phần đối với yêu cầu nguyên đơn tự nguyện rút.
Đối với bị đơn luật sư bị đơn cũng xác định không yêu cầu, rút lại phần kháng cáo nên chấp nhận đình chỉ yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
Đề nghị: áp dụng khoản 2 Điều 308 và Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa một phần bản án dân sự của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Cần Thơ theo hướng công nhận phần đất tranh chấp ở vị trí B có diện tích 28,8m2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn, đình chỉ 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đình chỉ đối với kháng cáo của bị đơn do rút yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại tòa phúc thẩm; Căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên; những người tham gia tố tụng khác.
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả quyền sử dụng đất giáp ranh với bị đơn nên Tòa án nhân dân quận B giải quyết và xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề là phù hợp theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Dân sự 2015 và khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Sau khi xét xử sơ thẩm, cả nguyên đơn và bị đơn đều có kháng cáo. Xét thấy, đơn các kháng cáo đúng quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Để xét nội dung kháng cáo cần đánh giá tính khách quan, toàn diện của hồ sơ, cấp phúc thẩm lần lượt xem xét toàn bộ các chứng cứ có liên quan để xem xét. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, diện tích đất nguyên đơn có thay đổi nhiều lần. Theo hồ sơ thể hiện tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả phần đất có diện tích 15,7m2 nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn và 9,5m2 nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Tuy nhiên, nguyên đơn cho rằng người đại diện đã không thực hiện đúng yêu cầu họ đã ủy quyền và tại phiên tòa phúc thẩm xác định yêu cầu bị đơn trả phần đất diện tích thực tế 28,8m2 tại vị trí B theo bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021.
[4] Quá trình giải quyết ở giai đoạn phúc thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ tiến hành thẩm định ngày 24/11/2020 và có Bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ. Theo đó, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả phần đất diện tích thực tế 28,8m2 tại vị trí B theo bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021. Xét thấy, phần yêu cầu của đại diện nguyên đơn vẫn thuộc phạm phạm vi đã khởi kiện, đã được cấp sơ thẩm và phúc thẩm đo đạc và ghi nhận hiện trạng thực tế theo vị trí đã khởi kiện tại phường T, quận B, thành phố Cần Thơ thửa đất số 01, tờ bản đồ số 03 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00096 ngày 10/7/1997. Do đó, cấp phúc thẩm tiếp tục xem xét với yêu cầu này của nguyên đơn.
[5] Về nguồn gốc: Phần đất của ông Nguyễn Văn Đ và bà Trương Thị Thanh N mua từ ông Phạm Văn B với diện tích ngang 06m chiều dài hết phần đất khoảng 59,4m, sau đó ông mua thêm của ông Nguyễn Văn T ngang 01m dài hết đất. Ông Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích ngang 7m, chiều dài 59,4m tổng diện tích 416m2, khi tiến hành đo đạc thực tế phần đất ông Đ còn 386,3m2, phần còn thiếu là 29,7m2. Căn cứ vào Bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021 thể hiện phần đất của ông Nguyễn Văn Đ khi đo thực tế có chiều ngang 7,10m, trong khi thực tế ông Đ chỉ mua 7m chiều ngang nên phần đất tranh chấp ở điểm này nằm ở phần 1,2m của ông Bình dùng làm lối đi chung. Đối với phần đất của ông Lê Đình T cũng dư so với giấy chứng nhận ban đầu được cấp. Nguyên nhân phần đất của nguyên đơn và bị đơn đều tăng là do còn một phần đất của ông Bình dùng làm lối đi có diện tích 1,2m nên cả hai bên đều sử dụng phần lối đi này. Đây là sự thừa nhận của các bên đương sự. Phần đất này tại ví trí A các bên cũng không tranh chấp nên cũng không đặt ra xem xét.
[6] Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút lại đơn khởi kiện phần đất tranh chấp ở vị trí A và C theo Bản trích đo địa chính ngày 18/01/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ. Đây là sự tự nguyện của đương sự, không trái quy định của pháp luật nên chấp nhận đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn đối với phần rút này theo quy định tại khoản 2 Điều 244 và khoản 3 Điều 289 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Chỉ xem xét đánh giá đối với phần phần tranh chấp giữa các bên tại vị trí B.
Do vị trí tranh chấp các bên có thay đổi vị trí tranh chấp và lời khai các bên cũng khác nhau về các loại cây trồng trên đất và cấp sơ thẩm chưa thực hiện kiểm tra nên cấp phúc thẩm đã thực hiện kiểm tra tại giai đoạn phúc thẩm vào ngày 24/11/2020 và ngày 16/6/2021.
[7] Thấy rằng: xét về hình thể giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn thì đối với phần đất tranh chấp ở vị trí B có diện tích 28,8m2 nằm ở vị trí phía sau phần đất của nguyên đơn đúng với hình thể thửa đất mà nguyên đơn đã yêu cầu và nếu cộng phần đất tranh chấp tại vị trí B thì diện tích đất của nguyên đơn cơ bản đủ so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp nên có căn cứ để công nhận phần đất tranh chấp ở vị trí B cho nguyên đơn. Hai bên đương sự đều thừa nhận diện tích ranh đất từ mặt tiền chạy thẳng đến thâm hậu là đường thẳng, nhưng rõ rằng vị trí B mà phía gia đình bị đơn sử dụng đã lấn hẳn sang phía sau đất của gia đình nguyên đơn.
[8] Đối với phần cây trồng trên đất, nguyên đơn để cho bị đơn trồng cây mà không ngăn cản nên khi bị đơn trả lại phần đất tranh chấp thì nguyên đơn có trách nhiệm bồi thường giá trị đối với 01 cây xoài loại A, 01 cây khế loại A, 03 cây chuối loại A, 03 cây loại B và 01 cây mãng cầu loại C. Riêng phần hàng rào mà gia đình bị đơn rào chắn thì buộc các bị đơn tháo dỡ. Ngoài ra, đối với phần cát bom trên diện tích đất tranh chấp các bên không chứng minh được số tiền đầu tư và cũng không yêu cầu trong vụ kiện này nếu sau này phát sinh tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
[9] Do đó kháng cáo của nguyên đơn có sơ sở chấp nhận 01 phần và đình chỉ 01 phần đối với yêu cầu nguyên đơn tự nguyện rút.
[10] Đối với luật sư bị đơn cũng xác định không yêu cầu, rút lại phần kháng cáo nên chấp nhận đình chỉ yêu cầu kháng cáo của các bị đơn.
[11] Theo Quyết định số 10/QĐ-UBND ngày 27 tháng 6 năm 2019 của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ quy định đơn giá nhà, công trình, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi. Xoài loại A có giá 1.405.000đồng/cây; Khế loại A có giá 675.000đồng/cây; Chuối loại A có giá 110.000đồng/cây; Chuối loại B có giá 60.000đồng/cây; Mãng cầu loại C có giá 210.000đồng/cây Do đó, nguyên đơn có trách nhiệm bồi thường cho bị đơn giá trị cây trồng như đã phân tích trên với tổng số tiền: 1.405.000đồng + 675.000đồng + (110.000đồng x 3) + (60.000đồng x 3) + 210.000đồng = 2.800.000đồng.
[12] Từ những phân tích cụ thể nêu trên, có căn cứ để chấp nhận một phần kháng của nguyên đơn và Đối với luật sư bị đơn cũng xác định không yêu cầu, rút lại phần kháng cáo nên chấp nhận đình chỉ yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Sửa một phần bản án sơ thẩm.
[13] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát như đã nêu trên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên đề nghị của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận. Quan điểm của luật sư bảo vệ cho bị đơn là chưa có căn cứ thuyết phục nên không chấp nhận [14] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên nguyên đơn không phải chịu, kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Về chi phí đo đạc, thẩm định và định giá tài sản: tại giai đoạn phúc thẩm: Lần 1 là 6.866.000đồng và lần 2 là 2.600.000đồng đều do nguyên đơn đóng tạm ứng. Bị đơn phải chịu nên bị đơn có nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn số tiền 9.466.000đồng.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
Khoản 2 Điều 308; khoản 2 Điều 244 và điểm b, c khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn;
Đình chỉ một phần khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn. Đình chỉ yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
Sửa bản án sơ thẩm.
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, Nguyễn Thị Vân Anh và Nguyễn Tuấn D về yêu cầu bị đơn ông Lê Đình T và bà Lý Thị Y.
2/ Buộc bị đơn ông Lê Đình T và bà Lý Thị Y có trách nhiệm giao trả phần đất cho ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Vân Anh và ông Nguyễn Tuấn D diện tích đất đo đạc thực tế 28,8m2 tại vị trí (B) và tháo dỡ phần hàng rào trên đất theo Bản trích đo địa chính số 09/TTKTTNMT03 ngày 18/01/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ.
Ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Vân Anh và ông Nguyễn Tuấn D được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật về đất đai.
Ông Nguyễn Văn Đ, bà Trương Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Vân Anh và ông Nguyễn Tuấn D phải trả giá trị cây trồng cho ông Lê Đình T và bà Lý Thị Y với tổng số tiền 2.800.000đồng (Hai triệu tám trăm nghìn đồng.) Đối với phần cát bom trên diện tích đất tranh chấp các bên không chứng minh được số tiền đầu tư và cũng không yêu cầu trong vụ kiện này nếu sau này phát sinh tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
(Kèm bản trích đo địa chính số 09/TTKTTNMT03 ngày 18/01/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ)
3/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm Nguyên đơn được nhận lại 524.000đồng (Năm trăm hai mươi bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số 006831 ngày 17/10/2016 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Cần Thơ.
4/ Về chi phí tố tụng khác :
Chi phí đo đạc định giá giai đoạn sơ thẩm là 18.653.000đồng do nguyên đơn đóng tạm ứng; Bị đơn phải chịu nên bị đơn có trách nhiệm trả là cho nguyên đơn số tiền 18.653.000đồng.( Mười tám triệu, sáu trăm năm mươi ba nghìn đồng) Chi phí đo đạc định giá giai đoạn phúc thẩm: Tổng tiền thẩm định và định giá là 9.466.000đồng do nguyên đơn đóng tạm ứng. Bị đơn phải chịu nên bị đơn có nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn 9.466.000đồng (Chín triệu, bốn trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
5/ Về án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyên đơn không phải chịu án phí phúc thẩm nên nguyên đơn được nhận lại 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 004142 ngày 04/11/2019 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Cần Thơ.
Bị đơn phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 004147 ngày 06/11/2019 của Chi Cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Cần Thơ. Bị đơn đã thực hiện xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/10/2021) Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./