Trong trường hợp không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản thì cơ quan có thẩm quyền ra thông báo không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản như thế nào? Và mẫu thông báo không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản được quy định ra sao?
Mục lục bài viết
1. Mẫu thông báo không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản là gì?
Căn cứ dưới góc độ của Luật học và những quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì trưng cầu giám định được định nghĩa là hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thể hiện bằng việc cơ quan và người tiến hành tố tụng ra quyết định yêu cầu những người có kiến thức chuyên môn cần thiết về các lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, công nghệ … theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để nghiên cứu, kết luận về những vấn đề cần làm rõ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Chính vì thế mà mẫu thông báo không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản đã được ban hành và được biết đến là mẫu văn bản thông báo được cơ quan và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền lập ra để thông báo về việc không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản khi xác định thấy việc trưng cầu giám định và định gái tài sản của người này là không cần thiết và không đúng với quy định của pháp luật hiện hành.
Mẫu số 116/HS: Thông báo không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản được Viện kiểm sát lập ra mà cụ thể ở đây là kiểm sát viên trực tiếp phụ trách vụ án lập ra để thông báo về việc không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản. Mẫu được ban hành kèm theo Quyết định 15/QĐ-VKSTC năm 2018 về Mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố do Viện kiểm sát nhân dân tối cao
2. Mẫu thông báo không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản:
Mẫu thông báo không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản có nội dung cơ bản như sau:
VIỆN KIỂM SÁT[1] … [2] …
_______
Số:…../TB-VKS…-…[3]
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
___________________
… ngày… tháng… năm 20…
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC KHÔNG CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH/ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
VIỆN KIỂM SÁT…
Căn cứ Điều 42 và Điều 214/222 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Xét đề nghị trưng cầu giám định/định giá tài sản của[4] … ngày…… tháng… năm …
Nhận thấy:[5] ….
Viện kiểm sát … không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định/định giá tài sản và thông báo cho4 … biết./.
Nơi nhận:
– Người đề nghị trưng cầu giám định/định giá tài sản;
-………..;
– Lưu: HSVA, HSKS, VP.
KIỂM SÁT VIÊN
(Ký tên, đóng dấu)
Hướng dẫn soạn thảo mẫu thông báo không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định, định giá tài sản:
[1] Ghi tên Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao
[2] Ghi tên Viện kiểm sát ban hành. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thì bỏ mục này
[3] Viết tắt tên Viện kiểm sát ban hành – đơn vị phụ trách (nếu có)
[4] Ghi rõ họ, tên người đề nghị trưng cầu giám định/định giá tài sản
[5] Nêu lý do không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định/định giá tài sản theo quy định tại Điều 214/222 BLTTHS
3. Một số quy định về trưng cầu giám định, định giá tài sản:
Hiện nay, Về trưng cầu giám định được căn cứ dựa trên Điều 205 quy định Cơ quan có thẩm tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định khi thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định hoặc khi xét thấy cần thiết; quy định rõ nội dung quyết định trưng cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định; việc giao hoặc gửi quyết định cho cơ quan giám định và Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra Quyết định trưng cầu giám định.
Thẩm quyền ra quyết định trưng cầu giám định gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
– Về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định: các trường hợp bắt buộc phải giám định khi cần xác định “Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án; Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; Nguyên nhân chết người; Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả” thì
– Về yêu cầu giám định: Đây là điều luật mới để cụ thể hóa quyền yêu cầu của đương sự và người đại diện của họ trong vụ án hình sự; quy định rõ đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội; trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định, trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do.
– Về thời hạn giám định là việc mà pháp luật hiện hành quy định nhằm gắn trách nhiệm của cơ quan giám định trong từng trường hợp bắt buộc phải giám định để đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án; cụ thể, thời hạn giám định không quá chín ngày đối với việc giám định tuổi, thương tích, vũ khí quân dụng, chất ma túy…; không quá một tháng đối với việc giám định nguyên nhân chết, mức độ ô nhiễm môi trường và không quá ba tháng nếu giám định tâm thần.
– Việc giám định bổ sung được tiến hành trong hai trường hợp cụ thể được pháp luật hiện hành quy định khi nội dung kết luận giám định chưa rõ và chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó. Quy định rõ việc giám định bổ sung vẫn có thể do tổ chức, cá nhân đã giám định trước đó thực hiện.
– Về giám định lại được quy định tại Điều 211, Điều 212 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định hai trường hợp thực hiện việc giám định lại, đó là:
+ Trường hợp thứ nhất, pháp luật quy định khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác (việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện)
+ Trường hợp thứ hai là sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định (chỉ có Chánh án
– Pháp luật hiện hành đã quy định rõ nội dung của kết luận giám định và việc giải thích kết luận giám định, thời hạn gửi kết luận giám định và quyền của người tham gia tố tụng về kết luận giám định, theo đó: trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra kết luận giám định, tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định phải gửi kết luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định; trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được, cơ quan trưng cầu, người yêu cầu phải gửi kết luận giám định cho Viện Kiểm sát có thẩm quyền;
– Về thời hạn định giá (Điều 216): Không quy định cụ thể thời hạn định giá tài sản, thời hạn này do cơ quan yêu cầu định giá ấn định và phải nêu rõ trong văn bản yêu cầu định giá tài sản; trường hợp không thể tiến hành trong thời hạn yêu cầu thì Hội đồng định giá tài sản phải thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan, người đã yêu cầu biết;
– Về định giá lại (Điều 218): Việc định giá lại tài sản do Hội đồng định giá tài sản cấp trên trực tiếp thực hiện; trường hợp có mâu thuẫn giữa kết luận định giá lần đầu và kết luận định giá lại về tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá lại lần thứ hai. Việc định giá lại lần thứ hai do Hội đồng định giá có thẩm quyền thực hiện và kết luận định giá lần này dùng để giải quyết vụ án;
Nhự vậy, Pháp luật hiện hành đã quy định rõ về các trường hợp phải thực hiện trưng cầu giám định và các trường hợp phải thực hiện giám định. Kết quả của việc giám định được dùng để làm chứng cứ trước việc xét xử để việc xét xử này được diễn ra khách quan nhất. Việc giám định theo như quy định của pháp luật hiện hành thì đối với các đối tượng giám định khác nhau thì thời gian giám định sẽ khác nhau. Đối với những kết quả giám định chưa rõ và chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó thì cơ quan giám định cần phải thực hiện việc giám định bổ sung. Còn đối với việc có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác thì cơ quan có thẩm quyền như đã được nêu ở trên sẽ phải thực hiện việc giám định lại.
Cơ sở pháp ly:
– Quyết định 15/QĐ-VKSTC năm 2018 về Mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.