Trước khi mở phiên tòa xét xử, Tòa án có thời gian nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị xét xử, có thể xuất hiện trường hợp Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phát hiện hồ sơ chưa đầy đủ về chứng cứ để xác định tội phạm, người phạm tội,....Do vậy, trong giai đoạn này thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Mục lục bài viết
1. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung là gì?
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là hoạt động của Viện Kiểm sát, Tòa án chuyển lại hồ sơ cho cơ quan đã tiến hành tố tụng trước đó để bổ sung, làm rõ thêm những chứng cứ còn thiếu để chứng minh tội phạm, người phạm tội, khởi tố thêm người, thêm tội hoặc khắc phục những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan người vô tội, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là việc sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định chuyển lại hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để tiến hành điều tra bổ sung, làm rõ những chứng cứ còn thiếu để chứng minh các tình tiết của vụ án, khởi tố thêm người, thêm tội hoặc khắc phục những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan người vô tội, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật.
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (biểu mẫu) là văn bản do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ban hành sau khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm với nội dung quyết định chuyển lại hồ sơ vụ án hình sự cho Viện kiểm sát để tiến hành các nghiệp vụ điều tra bổ sung.
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung là văn bản được ban hành sau khi thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã nghiên cứu hồ sơ, do đó, việc quyết định trả hồ sơ là hoàn toàn có căn cứ và buộc Viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ tiếp nhận quyết định và thực hiện các nghiệp vụ điều tra bổ sung. Là căn cứ để hợp pháp hóa hoạt động của tòa án, Viện kiểm sát, là thời điểm phát sinh nghĩa vụ của Viện kiểm sát.
Căn cứ để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được ghi nhận tại Khoản 1, Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự, cụ thể:
– Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật tố tụng hình sự mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
– Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;
– Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
– Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
Một là, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể, rõ ràng và đầy đủ hơn các căn cứ để Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Theo quy định tại khoản 1 điều 280, có 4 căn cứ để Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, so với Bộ luật tố tụng năm 2003, Bộ luật tố tụng hình hành bổ sung thêm một căn cứ nữa là “có căn cứ cho rằng vụ án còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà bộ luật tố tụng hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án những chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can”. Thông thời Thông tư liên tịch 02/2017 đã cụ thể hóa, chi tiết hóa các quy định về căn cứ để trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đảm bảo pháp luật được áp dụng một cách chính xác và thống nhất.
Hai là, đã có quy định chặt chẽ và cụ thể hơn về số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung để hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần. Khoản 2 Điều 174 quy định: “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần.”
Đây là những quy định tiến bộ trong pháp luật tố tụng nước ta, tạo điều kiện cho Tòa án được chủ động trong công tác đánh giá toàn diện, khách quan các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ cần bổ sung để xác minh sự thật khách quan của vụ án, làm căn cú để ra phán quyết thấu tình đạt lý, đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc quy định như vậy có thể dẫn đến sự ỷ lại của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và nghĩ rằng vẫn còn một giai đoạn điều tra, thu thập chứng cứ tại Tòa án. Đồng thời, việc mở rộng quyền hạn cho Tòa án có thể dẫn đến sự chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không đem lại hiệu quả cao trong công tác tư pháp.
2. Mẫu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TÒA ÁN…………………….(1)
Số:…../…..(2)/HSST-QĐ
……., ngày….. tháng….. năm……
QUYẾT ĐỊNH
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
TÒA ÁN(3) ………..
Căn cứ các điều 45, 277 và 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:…/…/TLST-HS ngày…tháng…năm…;
Xét thấy:(4)………………
QUYẾT ĐỊNH:
Trả hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:…/…/TLST-HS ngày…tháng…năm… đối với bị can:(5)……………
Bị truy tố về tội (các tội)(6)……………
Cho Viện kiểm sát(7)…………
Để điều tra bổ sung những vấn đề sau đây:(8)
………………..
Nơi nhận:
– Viện kiểm sát(9)….(kèm hồ sơ vụ án);
– Hồ sơ vụ án;
– Lưu Tòa án.
THẨM PHÁN
(Ký tên, ghi rõ họ tên, đóng dấu)
3. Hướng dẫn mẫu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
(1) và (3) ghi tên Tòa án nhân dân xét xử sơ thẩm; nếu là Tòa án nhân dân cấp huyện thì cần ghi tên Tòa án nhân dân huyện gì thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào (ví dụ: Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh H); nếu là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì ghi tên Tòa án nhân dân tỉnh (thành phố) nào (ví dụ: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội); nếu là Tòa án quân sự khu vực cần ghi thêm quân khu (Tòa án quân sự Khu vực 1, Quân khu 4).
(2) ô thứ nhất ghi số, ô thứ hai ghi năm ra Quyết định (ví dụ: 16/2017/HSST-QĐ).
(4) ghi rõ trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự (ví dụ: Xét thấy cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được).
(5) ghi đầy đủ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp của bị can đầu vụ; nếu có nhiều bị can thì ghi thêm “và đồng phạm”. Trường hợp bị can là pháp nhân thương mại thì ghi tên, địa chỉ trụ sở chính, tên người đại diện theo pháp luật.
(6) ghi tội danh bị truy tố theo cáo trạng.
(7) và (9) ghi tên Viện kiểm sát cùng cấp.
(8) ghi đầy đủ, cụ thể những vấn đề cần điều tra bổ sung.
Cơ sở pháp lý:
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP về quy định việc phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung do Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng ban hành
Nghị quyết 05/2017/NQ-HĐTP về biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Bộ luật Tố tụng hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành