Sau khi tiếp nhận các nguồn tin về tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền cần phải thực hiện việc thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm. Vậy mẫu thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm có nội dung như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Mẫu thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm là gì?
Nguồn tin về tội phạm theo như quy định của pháp luật hiện hành thì bao gồm các nguồn tin từ nguồn tin tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện.
Mẫu thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm được cơ quan có thẩm quyền lập ra để thông báo về kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm. Mẫu thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm là cơ sở để xác minh về nguồn tin về tội phạm tố giác, báo tin về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố; người bị tố giác, kiến nghị khởi tố. Mẫu thông báo có nội dung nêu rõ về việc giải quyết nguồn tin về tội phạm….. Mẫu thông báo được ban hành kèm theo Thông tư 61/2017/TT-BCA về quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự do Bộ trưởng Bộ Công an.
2. Mẫu thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm:
……..
…….
Số: ……
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
….., ngày ……… tháng ………năm…….
THÔNG BÁO
KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM
Cơ quan
nhận được (1)……..của(2):
Nội dung(1) …………
Cơ quan đã tiến hành kiểm tra, xác minh(1)………… nêu trên.
Căn cứ các điều 56, 145, 146 và 147 Bộ luật Tố tụng hình sự,
THÔNG BÁO:
Kết quả giải quyết(1) …….. trên như sau: ….
Thông báo này được gửi đến Viện kiểm sát ….. biết.
Nơi nhận: ……………..
– VKS…..
– Hồ sơ 02 bản.
Hướng dẫn soạn thảo mẫu thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm:
(1) Ghi rõ: Tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố;
(2) Tên cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố; người bị tố giác, kiến nghị khởi tố.
3. Một số quy định về giải quyết nguồn tin về tội phạm:
3.1. Một số quy định chung về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:
Căn cứ dựa theo quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khoản 1, 2, 3 Điều 144
Bởi vậy, pháp luật Tố tụng hình sự đã quy định về những hình thức của tố giác và tin báo về tội phạm tố giác về tội phạm của công dân có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản, còn tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức phải được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên, xét về mặt học thuật, việc sử dụng thuật ngữ “bằng miệng” chỉ phù hợp với văn nói và chưa bao quát hết được các trường hợp xảy ra. Ngoài ra, khoản 5 Điều 144
3.2. Trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố:
Cũng căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, gồm: cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Tuy nhiên, cùng với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thì cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng là đầu mối tiếp nhận chủ yếu đối với nguồn tin về tội phạm.
Trên cơ sở quy định trên của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác và các tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã quy định cụ thể các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Như vậy, cơ quan, tổ chức khác có trách nhiệm tiếp nhận không chỉ tố giác về tội phạm của cá nhân mà còn cả tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức khác. Ngoài ra, cùng với việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khoản 4 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định trách nhiệm của việc thông báo kết quả giải quyết này. Quy định việc thông báo này cũng là một hình thức để cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin và cơ quan nhà nước kiến nghị khởi tố giám sát việc giải quyết của cơ quan có thẩm quyền.
3.3. Về thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố:
– Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 145 của Bộ luật này thì khi cơ quan, tổ chức và cá nhân trực tiếp thực hiện quyền tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 145 của Bộ luật này phải lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận; có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận. Do đó, theo như quy định tại điều này thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc tiếp nhận các thông tin tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi qua hai hình thức, cụ thể: đối với tin tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận; khi tiếp nhận các thông tin không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Sau khi nhận được tin tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Dựa theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 145 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát có yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đó phải chuyển hồ sơ có liên quan cho Viện kiểm sát để xem xét, giải quyết. Tuy nhiên, trong thời hạn ba ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
– Thông tư 61/2017/TT-BCA về quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành (Hiện đã hết hiệu lực).