Việc giảm thời gian chấp hành án là một trong những quy định thể hiện tính nhân đạo, nhân văn của pháp luật Việt Nam. Vậy trường hợp mắc bệnh hiểm nghèo có được giảm thời hạn chấp hành án hay không?
Mục lục bài viết
1. Mắc bệnh hiểm nghèo có được giảm hạn chấp hành án không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 8 của Thông tư liên tịch
– Các phạm nhân đã chấp hành ít nhất một phần tư (1/4) mức hình phạt đã tuyên bố đối với án phạt tù từ 30 năm trở xuống hoặc phạm nhân đã chấp hành được ít nhất 10 năm đối với mức phạt tù chung thân, đồng thời phạm nhân đó đáp ứng đầy đủ điều kiện về việc xếp loại chấp hành án phạt tù theo quy định tại Điều 6 của Thông tư liên tịch
+ Phạm nhân đã lập công tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mỗi lần lập công thì phạm nhân sẽ chỉ được xem xét và đề nghị giảm thời gian chấp hành hình phạt tù một lần;
+ Phạm nhân đã quá già yếu;
+ Phạm nhân mắc bệnh hiểm nghèo.
– Mức giảm mỗi lần cao nhất cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 8 của Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân, là 04 năm tuy nhiên cần phải đảm bảo thời gian thực tế chấp hành án phạt tù ít nhất là hai phần năm (2/5) mức hình phạt đã tuyên bố bởi cơ quan có thẩm quyền hoặc 15 năm đối với hình phạt tù chung thân;
– Trong trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của cơ quan có thẩm quyền đó là bộ trưởng Bộ công an hoặc bộ trưởng Bộ quốc phòng, đồng thời cũng được sự đồng ý và chấp nhận của tránh án tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, phạm nhân khi đó có thể sẽ được xét giảm vào thời gian sớm hơn, hoặc xét giảm với mức giảm cao hơn so với mức giảm như trên.
Theo đó thì có thể nói, phạm nhân mắc bệnh hiểm nghèo sẽ có thể sẽ được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện như sau:
– Phạm nhân mắc bệnh hiểm nghèo đã chấp hành được ít nhất một phần tư (1/4) mức hình phạt đã tuyên đối với trường hợp phạm nhân chịu án phạt tù từ 30 năm xuống, hoặc phạm nhân đã chấp hành ít nhất 10 năm phạt tù đối với tù chung thân;
– Đáp ứng đầy đủ điều kiện về vấn đề xếp loại chấp hành án phạt tù căn cứ theo quy định tại Điều 6 của Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân.
2. Các điều kiện để phạm nhân được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:
Căn cứ khoản 1 Điều 6 của Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân (sửa đổi tại Thông tư liên tịch 02/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về việc quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tạm đình chỉ và giảm thời hạn chấp hành án phạt tù), có quy định phạm nhân có đủ các điều kiện sau đây thì được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:
– Đã chấp hành hình phạt tù trong khoảng thời gian ít nhất một phần ba (1/3) thời hạn đối với hình phạt tù dưới 30 năm hoặc có thời gian chấp hành ít nhất 12 năm đối với hình phạt tù chung thân;
– Có nhiều tiến bộ tại trại giam, thực hiện tốt nội quy trong trại giam, tích cực học tập và lao động cải tạo tại trại giam, có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ loại khá trở lên, cụ thể như sau:
+ Phạm nhân bị phạt tù chung thân theo quy định của pháp luật cần phải có ít nhất 04 năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm thời hạn được xếp loại từ khá trở lên.
+ Trường hợp bị kết án tử hình được chủ thể có thẩm quyền đó là Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân theo quy định của pháp luật cần phải có ít nhất 05 năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
+ Phạm nhân bị phạt tù trên 20 năm đến 30 năm theo quy định của pháp luật cần phải có ít nhất 03 năm 06 tháng liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
+ Phạm nhân bị phạt tù trên 15 năm đến 20 năm theo quy định của pháp luật cần phải có ít nhất 03 năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
+ Phạm nhân bị phạt tù trên 10 năm đến 15 năm theo quy định của pháp luật cần phải có ít nhất 02 năm liên tục liền kề hoặc 08 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
+ Phạm nhân bị phạt tù trên 05 năm đến 10 năm theo quy định của pháp luật cần phải có ít nhất 01 năm hoặc 04 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
+ Phạm nhân bị phạt tù trên 03 năm đến 05 năm theo quy định của pháp luật cần phải có ít nhất 06 tháng hoặc 02 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
+ Phạm nhân bị phạt tù 03 năm trở xuống theo quy định của pháp luật cần phải có ít nhất 01 quý gần nhất được xếp loại từ khá trở lên.
3. Thời điểm nào xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân?
Căn cứ Điều 5 của Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân (sửa đổi tại Thông tư liên tịch 02/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về việc quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tạm đình chỉ và giảm thời hạn chấp hành án phạt tù), có quy định thời điểm xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Theo đó, tthời điểm xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là 03 đợt mỗi năm. Cụ thể như sau:
– Ngày giải phóng niền Nam, thống nhất đất nước 30 tháng 04;
– Ngày Quốc khánh 2 tháng 09;
– Tết Nguyên đán.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân;
– Thông tư liên tịch 02/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về việc quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tạm đình chỉ và giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.