Luật sư tư vấn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi mở lối đi chung. Tranh chấp giữa các hộ gia đình về vấn đề mở lối đi chung.
Luật sư tư vấn về thẩm quyền
Tóm tắt câu hỏi:
Kính chào luật sư. Em có một việc muốn hỏi luật sư: Năm 2013 em cùng 3 hộ gia đình nữa mua nhà trong hẻm có Sổ đỏ thể hiện phần đất và lối đi 1,50m. Nay hộ cô A mặt tiền phía trước muốn mở cửa ra lối đi của 4 hộ để kinh doanh cho sinh viên thuê và 4 hộ không đồng ý. Họ viết đơn khiếu nại lên phường, đã họp và kết luận hộ cô A được mở cổng nhưng cả 4 hộ vẫn giữ quan điểm không đồng ý cho mở cổng và không ký vào biên bản cuộc họp với lý do: Nhà cô A có mặt tiền đường lớn 7m, có đường luồng đi riêng cho sinh viên thuê , có tường rào phân giới rõ ràng, hồi giờ không xảy ra tranh chấp, trên sổ 4 hộ thể hiện lối đi rõ ràng. Xin Luật sư tư vấn nhà cô A có được phép mở không khi 4 hộ không đồng ý. Và nếu tiếp tục tranh chấp thì xin hướng giải quyết? Cảm ơn Luật sư!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Theo thông tin bạn cung cấp thì phần đất được sử dụng là lối đi chung thuộc sở hữu của các hộ trong hẻm. Như vậy, người sử dụng đất chỉ được quyền yêu cầu sử dụng lối đi nằm trên đất thuộc quyền sở hữu của người khác nếu thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 254 Bộ luật dân sự 2015:
“Điều 254. Quyền về lối đi qua
1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Xem thêm: Luật sư tư vấn pháp luật lao động, giải quyết tranh chấp lao động
2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.
3. Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù.”
Như vậy, việc yêu cầu mở lối đi chung được đặt ra khi chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản ở trong, không có lối đi ra đường công cộng. Cũng theo như thông tin bạn cung cấp thì thửa đất của bà A có 7m chiều ngang tiếp giáp với đường chính nên hoàn toàn không bị vây bọc bởi các bất động sản liền kề nên việc sử dụng lối đi chung của 04 hộ trong hẻm là không hợp lý. Đồng thời, lối đi cho sinh viên thuê trọ cũng đã có nên việc yêu cầu mở một lối đi ra lối đi chung của các hộ trong hẻm là không có căn cứ.
Về việc giải quyết tranh chấp
Tranh chấp trong trường hợp của bạn được xác định là tranh chấp về đất đai theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật đất đai 2013: “24. Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.”
Điều 203 Luật đất dai 2013 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai như sau:
“Điều 203. Thẩm quyền
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
Xem thêm: Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự uy tín
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
>>> Luật sư tư vấn pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai: 1900.6568
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
Xem thêm: Luật sư tư vấn pháp luật về thừa kế, chia thừa kế, tranh chấp thừa kế
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.”
Bởi vụ việc đã trải qua quá trình hòa giải tại cơ sở những các bên vẫn chưa đi đến thông nhất để giải quyết nên các bên căn cứ vào tình hình thực tế có quyền lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp theo quy định nêu trên.
Xem thêm: Tư vấn luật đất đai, giải quyết tranh chấp nhà đất tại Hà Nội