Lập ID tham gia hệ thống đa cấp thì có phạm tội không? Có cấu thành tội phạm khi đăng ký tài khoản cho người khác trong hệ thống đa cấp?
Lập ID tham gia hệ thống đa cấp thì có phạm tội không? Có cấu thành tội phạm khi đăng ký tài khoản cho người khác trong hệ thống đa cấp?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư! Luật sư cho tôi hỏi: tôi có tham gia vào lĩnh vực đặt phòng khách sạn đa cấp nhưng tôi không rủ rê ai vào. Trong khi đó có một số người (là thành viên công ty) mà tôi quen biết đã chuyển tiền vào tài khoản của tôi và nhờ tôi đang ký giúp mã số ID qua mạng của công ty này và tôi đã đăng ký cho họ đầy đủ. Bây giờ họ đã mang những hóa đơn nộp tiền và thưa tôi ra công an, vậy xin hỏi trường hợp của tôi có phạm tôi không? Nếu có thì tôi sẽ phạm vào tội gì? Cảm ơn luật sư!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Tội phạm theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ Điều 2 Bộ luật hình sự 1999 quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự được xác định:
Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, hành vi của bạn xem xét có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không phụ thuộc vào việc hành vi đó có được quy định trong Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2009 hay không.
Bán hàng đa cấp là hành vi kinh doanh nhằm giới thiệu sản phẩm của công ty mình đến với người tiêu dùng một cách nhanh nhất. Bản chất bán hàng đa cấp là hình thức kinh doanh hiệu quả. Tuy nhiên, hình thức này đang có nhiều biến tướng tại Việt Nam và gây ra nhiều thiệt hại cho xã hội.
Căn cứ Điều 19 Nghị định 42/2014/NĐ-CP quy định người tham gia bán hàng đa cấp phải đảm bảo các điều kiện sau:
-Có năng lực hành vi dân sự;
-Không rơi vào các trường hợp:
+ Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc có tiền án về các tội sản xuất, buôn bán hàng giả, quảng cáo gian dối, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng, các tội về lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản.
+ Người nước ngoài không có Giấy phép lao động tại Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Người tham gia bán hàng đa cấp bị cấm theo khoản 2 Điều 5 Nghị định 42/2014/NĐ-CP:
a) Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải trả một khoản tiền nhất định, nộp tiền đặt cọc hoặc phải mua một lượng hàng hóa nhất định dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
b) Cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia bán hàng đa cấp, tính chất, công dụng của hàng hóa, hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp;
c) Tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị khách hàng, hội thảo giới thiệu sản phẩm, đào tạo mà không được doanh nghiệp bán hàng đa cấp ủy quyền bằng văn bản;
d) Lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc người tham gia bán hàng đa cấp của doanh nghiệp khác tham gia vào mạng lưới của doanh nghiệp mà mình đang tham gia;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, địa vị xã hội để yêu cầu người khác tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp hoặc mua hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Trong trường hợp này, bạn có hành vi lập ID cho một thành viên đã tham gia hệ thống bán hàng trước đó dưới sự ủy quyền của các thành viên này. Những thành viên này cũng có gửi tiền cho bạn để lập tài khoản. Điều này được chứng minh qua giấy chuyển tiền tại ngân hàng.
Nếu chỉ có hành vi như trên thì chưa đủ căn cứ để cấu thành tội phạm của bất kỳ tội nào. Bạn cần đưa ra thêm thông tin với trường hợp của bạn để xác định có cấu thành tội phạm hay không.