Kỹ năng tư vấn đối với yêu cầu ly hôn. Ly hôn và vấn đề chia tài sản chung?
Kỹ năng tư vấn đối với yêu cầu ly hôn. Ly hôn và vấn đề chia tài sản chung?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư! Anh Minh và chị Lan kết hôn với nhau. Trước khi kết hôn chị Lan được bố mẹ tặng cho 1 chiếc xe máy. Khi anh chồng cần làm ăn đã nói với chị Lan bán chiếc xe máy đi để làm ăn. Năm năm sau khi kết hôn bố mẹ chị lan cho chị 1 chiếc xe ôtô. Hai vợ chồng dùng xe này cho cuộc sống của mình. Tám năm sau khi kết hôn anh Minh có quan hệ ngoài hôn nhân và đề nghị li hôn. Trong trường hợp này chị Lan nên làm như thế nào ạ? Xin cảm ơn luật sư!
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Luật hôn nhân và gia đình 2014.
2. Luật sư tư vấn:
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn gồm: thuận tình ly hôn và đơn phương xin ly hôn. Thuận tình ly hôn là trường hợp ly hôn theo yêu cầu của hai vợ chồng dựa trên sự tự nguyện của cả hai bên đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Còn ly hôn theo yêu cầu của một bên (đơn phương xin ly hôn) là trường hợp vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Trong trường hợp anh Minh không muốn chung sống với chị Lan nữa thì anh Minh có quyền đơn phương xin ly hôn. Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết ly hôn trong trường hợp này. Khi mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài thì Tòa án chấp nhận việc ly hôn của hai người trong trường hợp này.
Xác định tài sản chung, tài sản riêng:
Tài sản chung là tài sản của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật hôn nhân và gia đình 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Trong trường hợp này, xe máy và ô tô là tài sản mà chi Lan có được trong thời kỳ hôn nhân là do được tặng cho riêng. Tuy nhiên, hai anh chị có thỏa thuận về việc đưa tài sản riêng của chị Lan vào làm tài sản chung của vợ chồng. Như thế, xe máy, ô tô trong trường hợp này là tài sản chung của vợ chồng anh Minh, chị Lan. Tuy nhiên, với ô tô chỉ được thỏa thuận đưa vào sử dụng chung chứ không phải để sáp nhập vào khối tài sản chung. Vì thế, nếu chị Lan có căn cứ và chứng minh được ô tô là tài sản riêng của chị (chỉ để sử dụng chung chứ không chuyển thành tài sản chung) thì đây được coi là tài sản riêng của chị Lan.
Đối với việc phân chia tài sản khi ly hôn:
Căn cứ Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng như sau:
– Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 và tại các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.
– Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 và tại các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 để giải quyết.
– Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
+ Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
+ Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
– Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
– Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
– Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân và gia điình qua tổng đài: 1900.6568
Trong trường hợp này, nếu vợ chồng anh Minh, chị Lan chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thực hiện theo thỏa thuận đó. Nếu lựa chọn chế độ tài sản theo luật định thì áp dụng theo nguyên tắc nêu trên. Như thế, về nguyên tắc tài sản chung của hai vợ chồng anh Minh chị Lan được chia đôi. Tuy nhiên, do anh Minh có hành vi ngoại tình nên được coi là vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Vì lý do này, chị Lan sẽ được chia phần nhiều hơn.