Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mỗi năm Quốc hội thường kỳ 2 lần. Vậy kỳ họp Quốc hội là gì? Quy định về nội dung và trình tự kỳ họp Quốc hội?
1. Kỳ họp Quốc hội là gì?
Kỳ họp Quốc hội là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất. Tại kỳ họp này các đại biểu Quốc hội trực tiếp thể hiện trí tuệ tập thể và là nơi tập trung quyền lực nhà nước của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kỳ họp là nơi Quốc hội đưa ra và thảo luận dân chủ, quyết định những vấn đề quan trọng nhất có liên quan đến vận mệnh của đất nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước
Kỳ họp Quốc hội tên tiếng Anh là: “Congress Meeting”.
Quốc hội tên tiếng Anh là: “Congress”.
2. Quy định về nội dung và trình tự kỳ họp Quốc hội:
Quy định về nội dung và trình tự ký họp Quốc hội được quy định tại Chương V
” 1. Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín.
2. Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ. Trường hợp Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu thì Quốc hội họp bất thường. Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp Quốc hội. 3. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa mới được triệu tập chậm nhất là sáu mươi ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, do Chủ tịch Quốc hội khóa trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch Quốc hội.”
Kỳ họp quốc hội là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc hội, Kì họp là nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực nhà nước của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền lập hiến và lập pháp; nơi thể hiện trí tuệ tập thể của các đại biểu Quốc hội. Tại kì họp, Quốc hội thảo luận dân chủ và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.
2.1. Hình thức họp Quốc hội:
Quốc hội họp công khai. Khi Quốc hội họp chúng có thể được đến dự theo giấy mời của Văn phòng Quốc hội. Các cơ quan thông tấn, báo chí được tham dự các phiên họp công khai của Quốc hội để phản ánh kịp thời, chính xác các hoạt động của Quốc hội. Trong các trường hợp cần thiết, theo để nghị của Chủ tịch nước, Uy ban thường của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc công khai, ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội thì Quốc hội quyết định họp kín. Việc công bố nội dung các phiên họp kín do Chủ tịch nước cùng với Chủ tịch Quốc hội quyết định.
2.2. Việc chuẩn bị và triệu tập kì họp Quốc hội:
Để cho các kì họp của Quốc hội bảo đảm chất lượng cao, việc chuẩn bị cho kì họp đóng vai trò rất quan trọng. Việc chuẩn bị các kì họp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, do nhiều cơ quan đảm nhiệm như xây dựng các dự án trình Quốc hội, điều tra, nghiên cứu, thu thập tình hình thực tế và ý kiến đóng góp của nhân dân về các vấn đề liên quan đến kì họp Quốc hội.
Việc chuẩn bị kì họp thu hút sự tham gia của đông đảo các cơ quan nhà nước, của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, của bản thân môi đại biểu Quốc hội. Trước khi triệu tập kì họp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội phải dự kiến chương trình làm việc của kì họp; xem xét việc chuẩn bị các dự án và rà soát lại các khâu chuẩn bị. Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa trước dự kiến chương trình làm việc của kì họp thứ nhất của Quốc hội khóa mới.
Dự kiến chương trình kì họp phải được gửi đến các đại biểu Quốc hội chậm nhất là một tháng trước khi Quốc hội họp để các đại biểu nghiên cứu và góp ý kiến. Pop Việc triệu tập các kì họp thường lệ của Quốc hội phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định và thông báo chậm nhất là ba mươi ngày (đối với các kì họp bất thường là bảy ngày) trước ngày khai mạc kì họp. Dự kiến chương trình kì họp Quốc hội được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc kì họp đối với kì họp thường lệ và chậm nhất là 04 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp đối với kì họp bất thường.
Quyết định triệu tập kỳ họp cùng với dự kiến chương trình kỳ họp được gửi đến đại biểu Quốc hội. Vi Dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp được gửi đến đại biểu Quốc hội cùng với quyết định triệu tập kỳ họp. Chậm nhất là mười lăm ngày trước khi Quốc hội họp, dự kiến chương trình kì họp thường lệ phải được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.3. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội:
– Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng. Trong phiên họp đầu tiên của mỗi khóa Quốc hội, Quốc hội bầu ra Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu để tiến hành thẩm tra tư cách của các đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội, Quốc hội tiến hành bầu cử các chức danh lãnh đạo cao nhất của Nhà nước.
– Bằng cách bỏ phiếu kín, Quốc hội bầu Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm, các Ủy ban của Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ, Chánh án
2.4. Trình tự xem xét và thông qua các dự án tại kỳ họp Quốc hội:
Tại kì họp, Quốc hội xem xét và thông qua các dự án kế hoạch nhà nước, dự toán ngân sách nhà nước, các báo cáo, dự án luật và các dự án khác theo trình tự sau đây:
– Thứ nhất, trình bày các dự án trước Quốc hội Để Quốc hội xem xét và quyết định thì cơ quan hoặc người trình bày dự án phải trình bày trước Quốc hội. Khi trình bày cần làm rõ yêu cầu xây dựng dự án, nội dung cơ bản của dự án, các bước chuẩn bị đã tiến hành, tài liệu tham khảo, việc chỉnh lí dự thảo và toàn văn dự án.
– Thứ hai, thuyết trình việc thấm tra các dự án Sau khi nghe cơ quan hoặc người trình bày dự án trình bày, Quốc hội nghe thuyết trình viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội được giao thẩm tra dự án, báo cáo ý kiến của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội về dự án đó. Thuyết trình viên phải nêu lên những mặt được và những hạn chế, thiêu sót của dự án đồng thời phát biểu ý kiến về việc có thể chấp nhận dự án được hay không. Nếu cần khắc phục những điểm nào trong dự án thì phải nói rõ.
– Thứ ba, thảo luận các dự án là Trưng Các dự án đều được Quốc hội xem xét và thảo luận ở các tổ đại biểu hoặc tập trung ở hội trường. Việc thảo luận ở tổ hay ở hội trường được quyết định phụ thuộc vào mức độ phức tạp của vấn đề. Có những dự án vừa phải thảo luận ở các tổ đại biểu vừa phải thảo luận tập trung tại hội trường. Điều quan trọng nhất là phải làm sao tạo điều kiện để các đại biểu phát biểu hết và thể hiện đúng ý kiến của mình, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Các vẫn đề được xem xét một cách toàn diện, từ đó lựa chọn được phương án tôi ưu để đi đến biểu quyết.
– Thứ tư, biểu quyết để thông qua các dự án Biểu quyết là hình thức thế hiện ý chí và quan điểm của các đại biểu Quốc hội về một vấn đề, một dự án, một nghị quyết v.v.. Biểu quyết còn là cách thức chấm dứt việc thảo luận để đi đến quyết định cuối cùng. Vấn đề cần biểu quyết và cách biểu quyết do Quốc hội quy định. Các luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; trường hợp làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kì của Quốc hội, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (Điều 88 Hiến pháp năm 2013).
2.5. Vấn đề chất vấn và trả lời chất vấn:
– Chất vấn là một biện pháp thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, nó thực sự phát huy tác dụng tại các kì họp Quốc hội. Trong chương trình kì họp, Quốc hội dành thời gian thích đáng cho việc chất vấn và trả lời chất vấn. Chất vấn là quyền của đại biểu Quốc hội đòi hỏi một cơ quan nhà nước, một nhà chức trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất về vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan hoặc người bị chất vấn.
– Chất vấn cũng là một dạng câu hỏi nhưng chất vấn hoàn toàn khác câu hỏi bình thường. Nếu như câu hỏi bình thường được đặt ra chi nhằm mục đích để thu thập thông tin thì chất vấn được đặt ra nhằm để quy kết trách nhiệm. Vì vậy, vấn đề chất vấn chi đặt ra khi đã được các đại biểu Quốc hội điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng và đã có chủ định về trách nhiệm của cơ quan hoặc người bị chất vấn.
– Khi chất vấn đã được nêu lên thì buộc các cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời và trả lời nghiêm túc. Đối tượng bị chất vấn, thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013,
– Trong thời gian Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp đó. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thả quyết định cho trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội hay tại kì họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản. Trong thời gian giữa hai kì họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Quốc hội có thể bố trí thời gian để các đại biểu phát biểu ý kiến về việc trả lời chất vấn. Nếu đại biểu không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra tháo luận trước Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội. Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn.
Căn cứ pháp lý sử dụng trong bài viết: