Không sang tên xe khi mua bán mà chỉ làm ủy quyền sử dụng có đúng không? Mua bán xe bằng giấy ủy quyền có hợp pháp không? Mức xử phạt trong trường hợp mua bán xe nhưng không làm thủ tục sang tên là bao nhiêu?
Mục lục bài viết
1. Không sang tên xe khi mua bán mà chỉ làm ủy quyền sử dụng có đúng không?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin luật sư cho biết: Tôi có mua xe ô tô vào cuối năm 2015. Nhưng tôi không làm thủ tục sang tên đổi chủ mà chỉ làm hợp đồng ủy quyền sử dụng không thời hạn (toàn quyền được mua, bán, cho, tặng…). Như vậy có hợp pháp không? Trân trọng cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Thứ nhất, thực chất giao dịch của bạn là giao dịch mua bán, nếu bạn chỉ làm hợp đồng ủy quyền mà không làm hợp đồng mua bán, không thực hiện thủ tục sang tên đổi chủ là không đúng với quy định của pháp luật.
– Căn cứ Điều 430
– Căn cứ Điều 562
– Căn cứ Điều 563 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời hạn ủy quyền.
Về bản chất hợp đồng ủy quyền và hợp đồng mua bán là hoàn toàn khác nhau. Hợp đồng mua bán tài sản được thiết lập khi bên bán muốn chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua, theo đó bên bán giao tài sản và bên mua trả tiền cho bên bán. Còn hợp đồng ủy quyền là việc hai bên thỏa thuận với nhau về việc bên được ủy quyền thực hiện một công việc nhân danh bên ủy quyền. Như vậy theo như vụ việc của bạn, cuối năm 2015 bạn có mua một chiếc ô tô thì việc bạn thiết lập hợp đồng ủy quyền chứ không phải hợp đồng mua bán xe ô tô là không phù hợp với quy định của pháp luật, dù cho đó là hợp đồng ủy quyền sử dụng không thời hạn (toàn quyền được mua, bán, cho, tặng…).
Việc này có thể sẽ phát sinh những rủi ro khi hai bên mua, bán mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giao nhận tiền, tài sản, cũng như phát sinh những bất lợi cho bạn khi thực hiện các giao dịch khác liên quan đến chiếc xe ô tô này. Chỉ với hợp đồng ủy quyền thì bạn không thể tiến hành thủ tục đăng ký sang tên. Bởi lẽ hợp đồng mua bán mới là chứng từ chuyển quyền sở hữu xe mà cơ quan nhà nước yêu cầu.
Thứ hai, về trách nhiệm thực hiện thủ tục đăng ký sang tên và hậu quả pháp lý nếu không đăng ký sang tên chiếc xe ô tô đã mua:
– Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Thông tư 15/2014/TT – BCA quy định về Giấy tờ của xe.
Như vậy, theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 10 Thông tư 15/2014/TT – BCA thì hợp đồng mua bán là loại chứng từ bắt buộc về chuyển quyền sở hữu xe khi tiến hành làm thủ tục đăng ký sang tên. Ngoài ra hợp đồng mua bán xe ô tô phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán theo quy định của pháp luật về chứng thực.
– Ngoài ra, căn cứ Điều 6 Thông tư 15/2014/TT-BCA quy định về đăng kí xe.
Như vậy, theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Thông tư 15/2014/TT-BCA nêu trên, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm chứng từ chuyển quyền sở hữu xe, tổ chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe phải đến cơ quan đăng ký xe làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe.
– Căn cứ Điều 30
Như vậy, trường hợp bạn thực hiện giao dịch mua bán xe ô tô mà không làm thủ tục đăng ký sang tên xe thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo điểm l Khoản 7 Điều 30
Tóm lại, việc bạn mua ô tô nhưng không làm hợp đồng mua bán mà chỉ làm hợp đồng ủy quyền sử dụng không thời hạn là không hợp pháp và có thể sẽ gây ra nhiều rủi ro pháp lý cho bạn sau này.
2. Hiệu lực pháp luật của hợp đồng mua bán xe máy viết tay:
Tóm tắt câu hỏi:
Cuối năm 2014 tôi có mua xe máy của người bạn, có hợp đồng viết tay và chữ ký của hai bên. Tôi đã giao cho người bạn 30 triệu đồng nhưng bạn tôi chưa làm thủ tục sang tên. Đến đầu năm 2015 thì bạn tôi đòi lại xe và cho rằng, xe chưa đăng ký sang tên thì vẫn là của bạn tôi. Vậy bạn tôi làm vậy có đúng không? Mong luật sư giúp tôi.
Luật sư tư vấn:
Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa hai bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản và bên mua có nghĩa vụ giao tiền theo như thỏa thuận.
Khi giao kết hợp đồng dân sự, các bên phải tuân thủ quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Điều 122 Bộ Luật Dân sự quy định giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
– Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự
– Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cầm của xã hội, không trái đạo đức xã hội
– Người giao dịch hoàn toàn tự nguyện
Ngoài ra, đối với những giao dịch pháp luật có yêu cầu về hình thức thì giao dịch dân sự phải đáp ứng các yêu cầu đó.
Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 10
Như vậy việc mua xe của bạn có được lập thành hợp đồng, có chữ ký của hai bên nhưng không được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Do vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nên giao dịch mua bán xe của bạn có thể bị Tòa án tuyên bô hiệu.
Điều 134 Bộ Luật Dân sự quy định về trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức như sau: Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một bên, Tòa án, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Trong trường hợp bên bán khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức của giao dịch thì tòa án sẽ ra quyết định buộc hai bên thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực. Nếu hai bên không thể thỏa thuận về việc công chứng, chứng thực hợp đồng thì hợp đồng mua bán xe sẽ vô hiệu
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 137 Bộ Luật Dân sự như sau:
– Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập;
– Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Trong trường hợp này, bên bán xe cho bạn có quyền đòi lại chiếc xe đã bán và phải trả lại cho bạn số tiền bán xe.
3. Mua bán xe như thế nào để hợp pháp?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào hãng luật Dương Gia Em là Lê Mai, em có vấn đề muốn nhờ hãng luật mình tư vấn. Rất mong được sự giúp đỡ. Em có mua 1 chiếc xe máy AB 2010 của anh A với giá 31.000.000 VND, nhưng khi đặt cọc 20.000.000 vnd mới biết chiếc xe này không phải của anh A đứng chủ xe mà là anh B đứng chủ. Khi viết giấy mua bán không có mặt anh B, và người đứng bán cùng với kí mọi giấy tờ là anh A làm hết.
Em hẹn 7 ngày sau sẽ giao đủ 11.000.000 vnd còn lại, nhưng yêu cầu anh B có mặt để hoàn thành thủ tục mua bán. nhưng chưa được chấp thuận. Em rất lo lắng sợ chiếc xe này có tranh chấp. Xin hỏi hãng luật bây giờ em nên làm như thế nào để chiếc xe này mang tính hợp pháp cho em sở hữu? Rất mong nhận được phản hồi cùng sự giúp đỡ từ hãng luật! Em xin cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Căn cứ theo Điều 145
Như vậy anh A mua bán xe nhưng xe không phải của anh A thì hợp đồng sẽ không có giá trị pháp luật, anh có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu anh A trả lại số tiền đã nhận. Trường hợp nữa nếu anh vẫn muốn thực hiện hợp đồng thì yêu cầu anh A thực hiện đúng cam kết và yêu cầu chuyển quyền sở hữu chiếc xe đó cho mình mà hai bên đã thỏa thuận, và trường hợp anh đã biết rằng anh A không có phải là người đại diện cho anh B về việc mua xe thì anh sẽ thông báo cho anh B về thỏa thuận này, nếu anh B chấp nhận thì hai bên sẽ thực hiện đúng đúng như thỏa thuận
Căn cứ điều 139, điều 142
Về vấn đề chuyển quyền sở hữu xe máy quy định tại Thông tư 15/2014/TT-BCA. Thủ tục:
– Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực.
Trường hợp chủ xe là cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân, Quân đội nhân dân hoặc cá nhân nước ngoài làm việc trong cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà đăng ký xe theo địa chỉ của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác thì phải có xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.
– Giấy khai đăng ký xe theo mẫu
– Giấy chứng nhận đăng ký xe.
– Chứng từ lệ phí trước bạ
Sau đó nộp lên cơ quan có thẩm quyền là phòng cảnh sát giao thông cấp huyện.
4. Tư vấn thủ tục sang tên chuyển nhượng xe ô tô:
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có làm thủ tục mua 1 chiếc xe ô tô của anh B nhưng anh B này mua lại của anh C. Nhưng anh B chưa đi đăng ký sang tên quyền sở hữu về tên của anh B nhưng có hợp đồng mua bán giữa anh B và anh C. Hiện nay tôi và anh B đã ra phòng công chứng làm hợp đồng mua bán đã xong và phòng công chứng đã xác nhận và lưu. Nhưng do 1 tháng nữa tôi mới trả phần tiền còn lại như trong hợp đồng và khi đó tôi sẽ làm thủ tục rút hồ sơ và sang tên quyền sử dụng chiếc xe ô tô đó về tên tôi.
Hiện tôi đang giữ cavet và hợp đồng mua bán giữa anh B và anh C nhưng xe tôi không có giữ. Cho tôi hỏi trong 1 tháng đó nếu anh B vẫn làm thủ tục bán chiếc xe đó cho 1 người nào khác và cũng làm hợp đồng công chứng có được không? Hệ thống công chứng tại các phòng của nhà nước có liên thông với nhau trên cả nước không? mong sớm nhận đươc thư phản hồi của luật sư?
Luật sư tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp bạn có làm thủ tục mua một chiếc ô tô của anh B mà anh B mua lại của anh C. Anh B chưa thực hiện việc sang tên quyền sở hữu xe nhưng giữa anh B và anh C có hợp đồng mua bán với nhau. Hiện nay bạn và anh B đã ra phòng công chứng làm hợp đồng mua bán và hợp đồng được công chứng và lưu tại phòng công chứng. Đăng ký xe và hợp đồng mua bán giữa anh B và anh C bạn đang giữ, theo thỏa thuận thì sau thời gian 1 tháng nữa bạn sẽ thanh toán phần tiền còn lại và làm thủ tục rút hồ sơ và sang tên quyền sở hữu chiếc xe này và nhận xe về.
Căn cứ theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 10
Theo đó, hợp đồng bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực. Việc chứng thực chữ ký trên giấy bán, tặng, cho xe được hướng dẫn bởi Công văn 3956/BTP-HTQTCT năm 2014 như sau:
– Đối với Giấy bán, cho, tặng xe chuyên dùng thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người bán, cho, tặng xe thực hiện chứng thực chữ ký của người bán, cho, tặng xe.
– Đối với Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân thì người dân có quyền lựa chọn công chứng Giấy bán, cho, tặng xe tại các tổ chức hành nghề công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực chữ ký trên Giấy bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực; nếu người dân lựa chọn chứng thực chữ ký trên Giấy bán, cho, tặng xe cá nhân thì thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện như chứng thực chữ ký trên Giấy bán, cho, tặng xe chuyên dùng nêu trên.
Bên cạnh đó, Sở Tư pháp cần quán triệt Ủy ban nhân dân cấp xã về việc trước khi thực hiện chứng thực chữ ký trên Giấy bán, cho, tặng xe, Ủy ban nhân dân cấp xã cần giải thích rõ cho người dân về tính chất khác nhau, trách nhiệm khác nhau giữa việc công chứng và chứng thực, để người dân lựa chọn, bảo đảm an toàn cho giao dịch của mình.
Theo đó, nếu người dân lựa chọn chứng nhận việc bán, cho, tặng xe cá nhân (theo Thông tư số 15/2014/TT-BCA) tại các tổ chức hành nghề công chứng thì mức độ an toàn pháp lý được bảo đảm cao hơn, vì công chứng viên phải chịu trách nhiệm về tính xác thực, hợp pháp của giao dịch mua bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về công chứng.
Còn nếu người dân lựa chọn việc chứng thực chữ ký trên các giấy tờ mua bán, cho, tặng xe tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì Ủy ban nhân dân chỉ chịu trách nhiệm về việc chữ ký trên Giấy bán, cho, tặng xe là chữ ký của người yêu cầu chứng thực; người dân phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của giao dịch mua bán, cho, tặng xe cá nhân.
Do đó, việc bạn và anh B thực hiện việc công chứng hợp đồng bán xe ở văn phòng công chứng thì mức độ an toàn pháp lý của hợp đồng này được bảo đảm cao hơn việc chứng thực hợp đồng tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Khi đó công chứng viên phải chịu trách nhiệm về tính xác thực, hợp pháp của giao dịch mua bán, cho, tặng theo quy định của pháp luật về công chứng.
Trường hợp nếu trong thời gian 01 tháng mà anh B lại ký hợp đồng chuyển nhượng xe với một cá nhân khác thì theo quy định nếu hợp đồng được công chứng tại văn phòng công chứng thì công chứng viên phải chịu trách nhiệm về tính xác thực, hợp pháp của giao dịch mua bán trên.
Theo đó để xác định được tính hợp pháp của hợp đồng mua bán này thì công chứng viên có thể yêu cầu bên bán xe xuất trình một trong các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu xe như đăng ký xe hoặc các giấy tờ liên quan tới chứng từ chuyển quyền sở hữu xe được quy định tại khoản 1 Điều 10 Thông tư 15/2014/TT-BCA. Nếu công chứng viên vẫn công chứng hợp đồng này thì khi có xảy ra tranh chấp giữa các bên thì công chứng viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với hành vi của mình đã thực hiện.
Trường hợp nếu anh B thực hiện việc chứng thực chữ ký hợp đồng chuyện nhượng với một bên khác thì theo quy định Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn chỉ chịu trách nhiệm về chữ ký trên hợp đồng chuyển nhượng và người mua, người bán xe phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của giao dịch mua bán xe này. Do đó, trong trường hợp này rủi ro thuộc về người mua xe, nếu phát hiện anh B có sự lừa dối trong việc này thì người mua có thể làm đơn khỏi kiện anh B tại tòa án nhân dân cấp quận huyện.