Nhận đủ lương là một trong những quyền lợi quan trọng của người lao động khi tham gia vào thị trường lao động. Vậy không nhận đủ lương có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng?
Mục lục bài viết
1. Người lao động không nhận đủ lương có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không?
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là việc tự ý thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn mà không có sự thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động với bên còn lại tham gia quan hệ hợp đồng lao động. Điều 35
– Người lao động có quyền thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:
+ Ít nhất là 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
+ Ít nhất là 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
+ Ít nhất là 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
+ Đối với một số các ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Cụ thể như sau:
++ Ít nhất là 120 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên;
++ Ít nhất là bằng một phần tư thời hạn của hợp đồng lao động đối với hợp đồng lao động có thời hạn dưới 12 tháng.
– Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
+ Không được bố trí theo đúng với công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm về điều kiện làm việc theo thỏa thuận;
+ Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng với thời hạn;
+ Bị người sử dụng lao động thực hiện hành vi ngược đãi, đánh đập;
+ Bị người sử dụng lao động có những lời nói, hành vi nhục mạ, những hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
+ Bị quấy rối tình dục ở ngay tại nơi làm việc;
+ Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo đúng quy định của pháp luật
+ Đủ tuổi nghỉ hưu theo đúng quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
+ Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định của pháp luật có làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
Theo đó, người lao động hoàn toàn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng người lao động phải có báo trước cho người sử dụng lao động một thời gian mà hai bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật quy định như đã nêu ở trên. Nhưng ở một số trường hợp nhất định thì người lao động không phải thực hiện về thời gian báo trước, trong đó có trường hợp người sử dụng lao động không trả đủ lương hoặc trả lương không đúng với thời hạn cho người lao động. Nếu vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp với mục đích để khắc phục nhưng cũng không thể trả lương đúng hạn cho người lao động thì không được chậm quá 30 ngày, quá 30 ngày mà người sử dụng lao động không trả đủ lương cho người lao động cộng thêm khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền lương trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động đã thực hiện mở tài khoản để trả lương cho những người lao động công bố tại thời điểm trả lương khi người sử dụng lao động trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì khi đó người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần tuân thủ về thời gian báo trước.
Như vậy, có thể khẳng định được rằng người lao động không được nhận đủ lương hoàn toàn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người sử dụng lao động mà không cần phải báo trước một thời gian mà hai bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Cụ thể:
– Trường hợp không vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động không trả đủ lương hoặc trả lương không đúng theo thời hạn cho người lao động thì người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ngay sau đó mà không cần phải báo trước.
– Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp nhằm mục đích để khắc phục nhưng không thể trả đủ lương hoặc trả lương đúng hạn: người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước sau 30 ngày kể từ ngày người sử dụng lao động đến hạn trả lương cho người lao động nhưng không trả đủ tiền lương cộng thêm khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền lương trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động đã mở tài khoản trả lương cho những người lao động công bố tại thời điểm trả lương khi mà người sử dụng lao động có trả lương chậm từ 15 ngày trở lên hoặc người sử dụng lao động không trả lương cho người lao động.
2. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi không nhận đủ lương có phải bồi thường?
Điều 40 Bộ luật Lao động 2019 quy định nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, cụ thể như sau:
– Người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật không được nhận trợ cấp thôi việc
– Người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật phải bồi thường cho chính người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo như trong hợp đồng lao động và cả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
– Người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật phải hoàn trả cho người sử dụng lao động các chi phí đào tạo.
Mà theo quy định của pháp luật, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không tuân thủ về thời gian báo trước cho người lao động thì chính là trường hợp người lao động đang đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật với người sử dụng lao động. Tuy nhiên, như đã nêu ở mục trên, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi người sử dụng lao động không trả đủ lương thì không phải tuân thủ về thời gian báo trước, tức là khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì người sử dụng lao động không trả đủ lương thì không phải thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Chính vì thế, người lao động sẽ không phải bồi thường cho người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì người sử dụng lao động không trả đủ lương.
3. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi không nhận đủ lương có được trả đủ lương:
Khoản 1 Điều 48 Bộ luật lao động quy định trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên (tức là người lao động và người sử dụng lao động) phải có trách nhiệm thực hiện việc thanh toán đầy đủ các khoản tiền mà có liên quan đến những quyền lợi của từng bên, trừ những trường hợp sau đây có thể kéo dài nhưng sẽ không được quá 30 ngày:
– Người sử dụng lao động không phải là cá nhân đã chấm dứt hoạt động;
– Người sử dụng lao động đã thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc là vì lý do kinh tế;
– Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi về loại hình doanh nghiệp;
– Chuyển nhượng về quyền sở hữu, quyền sử dụng các tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
– Do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc do có dịch bệnh nguy hiểm.
Như vậy, khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì người sử dụng lao động không trả đủ lương thì trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động vì người sử dụng lao động không trả đủ lương người sử dụng lao động phải có trách nhiệm thanh toán đầy đủ tiền lương và các khoản tiền khác mà người lao động được nhận cho người lao động.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Lao động 2019.