Các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại? Thời điểm nào thì bị hại có quyền rút yêu cầu khởi tố? Một số hạn chế liên quan đến quy định khởi tố theo yêu cầu người bị hại? Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại theo quy định mới nhất?
Khởi tố vụ án hình sự (VAHS) là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng hình sự. Trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Đối với các vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu bị hại, trong một số trường hợp, bị hại đã yêu cầu khởi tố có quyền yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trước đó. Tuy nhiên, chế định này đang có một số vướng mắc, bất cập do
Mục lục bài viết
1. Các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại
Theo Khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.
Khởi tố VAHS theo yêu cầu của người bị hại là trường hợp đặc biệt mà do tính chất của vụ án và vì lợi ích của người bị hại, cơ quan có thẩm quyền không tự ý quyết định việc khởi tố mà việc khởi tố VAHS được thực hiện theo yêu cầu của người bị hại.
Việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại vẫn phải tuân theo những quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố VAHS. Đặc biệt, việc khởi tố VAHS theo yêu cầu của người bị hại, được quyết định trên cơ sở kết hợp 2 yếu tố: Có dấu hiệu của tội phạm; có yêu cầu khởi tố về hình sự. Nếu không có dấu hiệu tội phạm thì dù người bị hại có yêu cầu khởi tố cũng không được khởi tố. Ngược lại, nếu người bị hại không yêu cầu khởi tố thì dẫu đã xác định có dấu hiệu tội phạm cũng không được khởi tố.
Tại Khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại, cụ thể như sau:
‘Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.’
- Khoản 1 Điều 134: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
- Điều 135: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
- Điều 136: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Điều 138: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
- Điều 139: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
- Điều 141: Tội hiếp dâm;
- Điều 143: Tội cưỡng dâm;
- Điều 155: Tội làm nhục người khác;
- Điều 156: Tội vu khống;
- Điều 226: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Ngoài ra, tại khoản 2 cũng có những quy định liên quan đến khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại đó là: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. Đồng thời, khoản 3 Điều 62 quy định: “Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa”.
So với
2. Thời điểm nào thì bị hại có quyền rút yêu cầu khởi tố?
Một là, theo quy định tại Điều 319
Hai là, trong trường hợp vụ án có nhiều bị hại, nếu họ tham gia tố tụng với tư cách độc lập (không có đại diện) thì việc một bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án thì chưa thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 155 mà phải tất cả bị hại đều rút yêu cầu khởi tố vụ án thì mới thuộc trường hợp đình chỉ. Việc rút yêu cầu khởi tố vụ án của một bị hại trong số nhiều bị hại có thể coi là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải nói rõ trong bản án. Tuy nhiên, vấn đề này theo chúng tôi cũng cần phải có hướng dẫn để áp dụng thống nhất.
3. Một số hạn chế liên quan đến quy định khởi tố theo yêu cầu người bị hại
Trong thực tế, có những trường hợp việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm người thực hiện hành vi phạm tội có thể gây thêm những tổn thất khác cho bị hại so với việc không khởi tố vụ án hình sự như: Gây thêm những tổn thất về tinh thần, làm lộ bí mật đời tư của bị hại, phá vỡ sự tha thứ, hòa giải và thỏa thuận bồi thường giữa các bên…
Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định đối với một số trường hợp tội phạm xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người hoặc xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, không phải là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không phải là rất lớn hoặc đặc biệt lớn, không có tình tiết định khung tăng nặng thì việc khởi tố vụ án chỉ có thể được thực hiện khi có yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện của họ.
Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định mang tính kế thừa Điều 105 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 có sự sửa đổi, bổ sung so với BLTTHS năm 2003 trong quy định về cơ chế sử dụng quyền yêu cầu của bị hại trong khởi tố vụ án hình sự. Khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ…”.
So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 đã có tiến bộ hơn khi mở rộng quyền rút yêu cầu của bị hại, đó là bị hại được quyền rút yêu cầu bất cứ lúc nào trong suốt quá trình tố tụng, từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử (khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định người bị hại chỉ được rút yêu cầu trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án mới được đình chỉ).
Tuy nhiên, việc hiểu và vận dụng khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn nhiều bất cập trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút đơn yêu cầu tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bởi BLTTHS năm 2015 chưa quy định cụ thể, rõ ràng. Để giải quyết vấn đề trên,
Theo đó, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: “Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều 282 của BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án…”; tại giai đoạn xét xử phúc thẩm thì: “Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.
Chưa quy định về nội dung, hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Nội dung yêu cầu khởi tố là yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, xử lý sự việc có dấu hiệu tội phạm. Nếu chỉ yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc chỉ yêu cầu cải chính, xin lỗi thì không phải là yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy, nếu đơn yêu cầu không thể hiện rõ yêu cầu khởi tố vụ án hoặc chỉ yêu cầu chung chung là xử lý sự việc theo pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải hướng dẫn người yêu cầu để họ xác định lại chính xác nội dung yêu cầu và làm đơn cho phù hợp, tránh trường hợp nội dung yêu cầu của người khởi tố không rõ ràng, dẫn đến việc giải quyết vụ án có vướng mắc.
Đơn tố cáo, tố giác tội phạm có phải là yêu cầu khởi tố?
Hiện có quan điểm cho rằng đơn tố cáo hoặc đơn tố giác tội phạm được xem là đơn yêu cầu khởi tố, vì tuy tiêu đề là đơn tố cáo, tố giác tội phạm nhưng trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội. Trong khi quan điểm khác lại cho rằng đơn tố cáo, tố giác tội phạm là cơ sở ban đầu để cơ quan có thẩm quyền xác minh, sau khi tiến hành xác minh nếu có dấu hiệu tội phạm thì bị hại phải làm tiếp đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Trong trường hợp nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau trong việc xác định đơn tố cáo có phải là yêu cầu khởi tố hay không việc giải quyết vụ án gặp khó khăn, phức tạp, hậu quả sẽ dẫn đến tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc hủy án.
Khó khăn trong áp dụng quy định về thay đổi quyết định khởi tố
Về quy định chỉ thay đổi quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp thay đổi tội danh, không thay đổi quyết định khởi tố vụ án nếu qua điều tra xác định được hành vi của bị can phạm vào tội nặng hơn hoặc nhẹ hơn trong cùng một tội danh đã khởi tố như đã phân tích ở trên làm phát sinh nhiều tình huống phức tạp như: Quá trình xác minh, giải quyết tin báo, tố giác xác định vụ án thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại; bị hại có yêu cầu, vụ án được khởi tố, sau đó quá trình điều tra xác định vụ án không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại… việc quy định không thay đổi quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp này sẽ gây khó khăn khi bị hại rút yêu cầu khởi tố.
Kết luận: Về nguyên tắc chung, khởi tố VAHS là quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm duy trì trật tự và công lý, không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân và không ai có thể can thiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, pháp luật quy định cho phép bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Đây là những trường hợp mà hành vi phạm tội vừa xâm phạm trật tự xã hội, vừa xâm phạm đến thể chất, sức khoẻ, danh dự của người bị hại.
Những trường hợp này nếu khởi tố vụ án, lợi ích về mặt xã hội thu được có thể không lớn mà còn có khả năng làm tổn thương thêm về mặt tinh thần cho người bị hại. Vì vậy, các nhà làm luật đã xác lập một khả năng, điều kiện để bị hại cân nhắc, quyết định có yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm tội hay không. Với quy định đó, nhà làm luật tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội thuận lợi để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra, hạn chế việc gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự không cần thiết có thể có đối với bị hại.