Khi các mối quan hệ về tài sản, các mối quan hệ về nhân thân càng ngày càng phát triển cần có một cơ chế để giúp việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ khi các bên thực hiện ý chí của mình, và từ đó hợp đồng ra đời. vậy hợp đồng là gì? Pháp luật quy định như thế nào về các loại hợp đồng? Bài viết dưới đây sẽ trình bày rõ những vấn đề nêu trên.
Mục lục bài viết
1. Hợp đồng là gì?
Hợp đồng theo quy định của
Tại Việt Nam, kể từ khi mở cửa xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, “việc mua bán hàng hóa được thực hiện trên cơ sở hợp đồng”. Do đó, hợp đồng là chế định trung tâm của đời sống dân sự và được quy định trong các đạo luật có giá trị pháp lý đặc biệt quan trọng tại mỗi quốc gia và đó chính là BLDS. Tuy nhiên, không chỉ lĩnh vực dân sự, hợp đồng còn tồn tại trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau và cụ thể là lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Còn trong chế định hợp đồng, hợp đồng vô hiệu là một bộ phận và là nội dung rất quan trọng. Nghiên cứu cho thấy, không chỉ trong các quy định hiện nay, hợp đồng vô hiệu đã từng được các văn bản pháp luật trước khi thống nhất đất nước tại Việt Nam quy định rất chi tiết, chặt chẽ, rõ ràng. Tuy nhiên, trước hết cần nắm rõ các định nghĩa của hợp đồng, để từ đó, có thể nhận biết sâu sắc về hợp đồng vô hiệu.
Trước khi tiếp cận khái niệm hợp đồng có lẽ cần có sự nhận thức chính xác về giao dịch dân sự. Về bản chất, “giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý đa dạng được thực hiện bởi ý chí của con người nhằm thu được một kết quả nhất định”. Do đó, giao dịch dân sự chính là hành vi của con người. Tuy nhiên, để có cơ sở chứng minh hay xác lập mối quan hệ giữa các bên khi họ tham gia vào các quan hệ dân sự đó thì người ta thường xác lập thông qua hợp đồng. Tại Việt Nam, kể từ khi thực dân Pháp du nhập hệ thống pháp luật của quốc gia này vào Việt Nam. Chế định hợp đồng đã xuất hiện. Nghiên cứu cho thấy, Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 từng quy định theo hướng: “Khế ước là một hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để tặng cho, để làm hay không làm cái gì”. Đây chính là tinh thần của hợp đồng để pháp luật có các điều chỉnh về các nội dung liên quan của hợp đồng.
Hay theo của Dân luật Trung Kỳ năm 1936 quy định theo hướng như sau: “Khế ước là một hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì”.
Tuy nhiên, khái niệm về hợp đồng của hai bộ Dân luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ thiếu sự bao quát khi đề cập ngày đến một sự phân loại nghĩa vụ dựa trên nội dung của nghĩa vụ, đó là chuyển giao quyền, làm hoặc không làm một việc gì đó. Nội hàm của hai khái niệm trong hai đạo luật này không bao quát được yếu tố tạo lập hậu quả pháp lý. Có lẽ, khái niệm hợp đồng của hai bộ luật này chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi BLDS Pháp năm 1804. Bởi lẽ, Việt Nam là thuộc địa của Pháp từ năm 1858 nên Pháp mang hệ thống pháp luật của mẫu quốc vào áp dụng tại Việt Nam.
Bộ Dân luật năm 1972 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng đã từng đưa ra quy định: “Khế ước hay hiệp ước là một hành vi pháp lý do sự thỏa thuận giữa hai người hay nhiều người để tạo lập, di chuyển, biến cải hay tiêu trừ một quyền lợi, đối nhân hay đối vật”. Có thể thấy rằng, mặc dù Bộ Dân luật năm 1972 của Việt Nam Cộng hòa nhắc đến sự thỏa thuận với nghĩa tương đồng với khế ước/hợp đồng. Tuy nhiên, điều này không gây ra sự nhầm lẫn nào vì việc tạo lập hậu quả pháp lý được nhắc đến ngay sau đó.
Sau đó, kể từ khi mở cửa xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Điều 01 của Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 quy định:
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.
Tiếp sau đó, Điều 394 của BLDS năm 1995 và Điều 388 của BLDS năm 2005 đều quy định theo hướng: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Đây chính là nền tảng pháp lý cho các văn bản pháp luật chuyên ngành như lao động, kinh doanh, thương mại có các điều chỉnh theo tinh thần của Bộ luật Dân sự đối với lĩnh vực của mình.
Có thể nhận thấy, BLDS năm 1995 và cả BLDS năm 2005 lại không sử dụng thuật ngữ “hợp đồng” như tất cả các nghiên cứu cơ bản về hợp đồng mà có một bổ ngữ “dân sự” ở phía sau. Và bổ ngữ “dân sự” này đã tạo ra bất cập trong thực tiễn. Về mặt cấu trúc của hệ thống pháp luật, ở những nước có sự phân biệt ngành luật công và luật tư thì BLDS thường được coi là bộ luật nền tảng của luật tư. Hay có thể quan niệm Hiến pháp của luật tư chính là BLDS. Do vậy, khái niệm hợp đồng và các chế định hợp đồng trong BLDS có tính bao quát cho toàn bộ các quan hệ tư nơi mà các chủ thể trong quan hệ ở vị thế bình đẳng với nhau và giao kết hợp đồng dựa trên sự tự do ý chí.
Việc thêm bổ ngữ “dân sự” ở đằng sau có thể khiến cho những người thực hành pháp luật hiểu nhầm rằng chế định về hợp đồng dân sự trong BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 chỉ áp dụng cho các quan hệ dân sự thuần túy (phục vụ mục đích sinh hoạt, tiêu dùng, không làm phát sinh lợi nhuận) mà không áp dụng cho các quan hệ tư khác như thương mại, kinh doanh, lao động thể hiện tư duy không chính xác về cấu trúc của hệ thống pháp luật tư và không thích ứng với cơ chế thị trường tại Việt Nam.
Mặt khác, thuật ngữ “hợp đồng dân sự” của BLDS năm 2005 là sự kế thừa từ chính BLDS năm 1995. Có thể khi BLDS năm 1995 ra đời, Việt Nam vừa mới bắt đầu quá trình đổi mới, thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch và trong tư duy của các nhà làm luật vẫn còn những quan niệm cũ về “kế hoạch hóa”, đặc biệt trong các quan hệ nhằm làm phát sinh lợi nhuận, dẫn đến sự phân biệt hợp đồng kinh tế, thương mại và hợp đồng dân sự thuần túy.
Không những vậy, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 đã tồn tại song song với BLDS năm 1995 và tạo nên hai hệ thống pháp luật hợp đồng riêng biệt. Hai hệ thống này có sự trùng lặp, mâu thuẫn và không thống nhất, vì vậy, dẫn đến sự sửa đổi về thuật ngữ trong BLDS năm 2015, chỉ còn là “hợp đồng”. Có thể, những nhà làm luật khi xây dựng BLDS năm 2015 sau đó đã sửa đổi nhằm loại bỏ mọi cách hiểu không chính xác cả về mặt khoa học và trong thực tiễn về phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng trong BLDS tại Việt Nam. Qua đó, chế định hợp đồng trong BLDS là nền tảng của mọi quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực tư. Do đó, đương nhiên trong lĩnh vực thương mại, các hợp đồng thương mại đều chịu ảnh hưởng, tác động hay dựa theo một phần khuôn mẫu của hợp đồng dân sự.
Ngoài hai đạo luật quan trọng này, trong thời điểm đó, liên quan đến hợp đồng, cũng có quan điểm cho rằng: “hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong hoạt động thương mại giữa thương nhân với thương nhân hoặc giữa thương nhân với các bên có liên quan”. Rõ ràng, đây cũng mở thêm một quan điểm về hợp đồng.
Hiện nay, Điều 385 của BLDS năm 2015 quy định về hợp đồng theo hướng như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên có liên quan về một số vấn đề phát sinh giữa họ. Và hợp đồng chính là căn cứ pháp lý để khi phát sinh tranh chấp, các bên có quyền đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết. Có thể đây là khái niệm đầy đủ và chi tiết nhất về hợp đồng dân sự tại Việt Nam.
Như vậy, các khái niệm hợp đồng trong các BLDS tại Việt Nam, có thể thấy, nhà làm luật nhìn nhận về sự ràng buộc của hợp đồng nghiêng về mặt chủ quan của sự thỏa thuận ý chí hơn là một khách quan/kết quả của sự thỏa thuận đó. Trong đó, quan tâm đến việc các bên có ý chí tạo lập hệ quả pháp lý ràng buộc mình hay không hơn là việc hệ quả pháp lý ràng buộc các bên xuất phát từ sự thỏa thuận hay xuất phát từ quy chế pháp lý được quy định sẵn bởi pháp luật.
Còn tại Hoa Kỳ, pháp luật quốc gia này quy định về hợp đồng như sau: “hợp đồng là sự thỏa thuận có hiệu lực bắt buộc. Theo pháp luật Hoa Kỳ, hợp đồng được hiểu là một hoặc nhiều sự hứa hẹn mà việc thực hiện chúng được coi là các nghĩa vụ pháp luật buộc phải thi hành” .
Còn theo tác giả Phạm Duy Nghĩa, “hợp đồng là một sự thỏa thuận có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên” .
Nhìn chung, khái niệm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam được hoàn thiện dần theo thời gian. Theo đó, Bộ Dân luật năm 1972 và BLDS năm 2015 hiện hành đều có chung quan điểm về hợp đồng: là một sự thỏa thuận/sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể, nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Ngoài ra, hợp đồng dân sự còn có thể được quan niệm như sau:
Hợp đồng dân sự là các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
Thứ nhất, về mặt chủ thể, thì chủ thể tham gia hợp đồng dân sự phải đảm bảo có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự phù hợp với loại hợp đồng đó. Chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng nếu là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự, nhân thức và làm chủ được hành vi của mình trong việc xác lập thay đổi chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự và tự chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng đó. Tùy thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân được tham gia vào các hợp đồng phù hợp với độ tuổi.
Còn nếu là pháp nhân tham gia vào hợp đồng dân sự được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp. Trong trường hợp người tham gia hợp đồng là tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, hộ gia đình thì chủ thể tham gia xác lập, kí kết thực hiện hợp đồng đó là người đại diện hoặc người được được ủy quyền.
Thứ hai, mục đích và nội dung của hợp đồng. Mục đích là những lợi ích hợp pháp, là hậu quả pháp lý trực tiếp mà giao dịch dân sự (phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự) mà các bên tham gia mong muốn đạt được khi thực hiện hợp đồng. Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản, các cam kết được xác định là quyền và nghĩa vụ của các bên và có tính chất ràng buộc các chủ thể khi tham gia thực hiện hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận với nhau về nội dung của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng có thể có các điều khoản sau:
– Đối tượng của hợp đồng;
– Số lượng, chất lượng;
– Giá, phương thức thanh toán;
– Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
– Quyền, nghĩa vụ của các bên;
– Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
– Phương thức giải quyết tranh chấp.
Theo quy định của pháp luật thì mục đích và nội dung của hợp đồng không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không được trái với đạo đức của xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Nếu mục đích, nội dung của hợp đồng vi phạm quy định của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội, trái với thuần phong mĩ tục thì đó cũng là căn cứ để xác định hợp đồng bị vô hiệu
Thứ ba, ý chí khi thực hiện hợp đồng. Bản chất của hợp đồng là giao dịch dân sự, việc giao kết hợp đồng sẽ phát sinh quyền lợi và nghĩa vụ cả các bên chủ thể tham gia vào hợp đồng, do vậy khi thực hiện giao kết hợp đồng các bên phải đảm bảo tính tự nguyện, tự do trong quá trình cam kết thỏa thuận.
Tính tự nguyện và tự do trong quá trình giao kết hợp đồng là các bên có thể tự do bày tỏ mong muốn theo ý chí của mình và không bị chi phối, bị cưỡng ép bị ép buộc hay bị đe dọa bởi bất kì người nào khác. Nếu việc thực hiện hợp đồng là do bị đe dọa cưỡng ép nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu.
Thứ tư, hình thức của hợp đồng. Về mặt hình thức của giao dịch dân sự, thì giao dịch dân sự có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: bằng lời nói, bằng văn bản, hoặc bằng những hành vi cụ thể. Tương tự như vậy, hợp đồng cũng được thể hiện dưới các hình thức như lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, tuy nhiên, thường thì khi giao kết hợp đồng các bên thường lựa chọn thể hiện dưới hình thức văn bản. Trong một số trường hợp nhất định thì việc thể hiện hình thức của hợp đồng ngoài việc thể hiện bằng văn bản thì hợp đồng còn phải được công chứng, chứng thực theo định quy định của luật đó thì mới có hiệu lực.
Ví dụ: Việc công chứng chứng thực
“a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;”
3. Các loại hợp đồng:
Theo quy định tại Điều 402
Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các bên thì có hợp đồng song vụ hoặc hợp đồng đơn vụ:
Theo đó hợp đồng song vụ là loại hợp đồng mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau. Trong hợp đồng song vụ thì các bên tham gia vừa có quyền vừa có nghĩa vụ với nhau. Quyền của bên này đồng thời là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Do đó việc thỏa thuận để đưa nội dung để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên vào hợp đồng là rất quan trọng, nó dẫn đến khả năng thực hiện hợp đồng của các bên (Ví dụ:
Hợp đồng đơn vụ là loại hợp đồng chỉ một bên có nghĩa vụ. Ví dụ: hợp đồng tặng cho tài sản,..Trái ngược với hợp đồng song vụ hợp đồng đơn vụ là loại hợp đồng không có đền bù, bởi vì bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của bên mang quyền, còn bên mang quyền sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ để đem lại lợi ích. Như vậy để xác định hợp đồng song vụ hay hợp đồng đơn vụ chỉ cần căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng đó tính từ thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng.
Căn cứ vào hiệu lực của hợp đồng thì có hợp đồng chính và hợp đồng phụ:
Hợp đồng chính là loại hợp đồng mà hiệu lực của nó không phụ thuộc vào nội dung của hợp đồng phụ. Do đó để phân biệt hợp đồng chính hay hợp đồng phụ cần căn cứ vào hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng chính tồn tại độc lập và không bị lệ thuộc vào nội dung của hợp đồng phụ.
Còn hợp đồng phụ là loại hợp đồng mà hiệu lực của nó phụ thuộc vào hợp đồng chính, có thể hiểu trong trường hợp này nếu hợp đồng chính không có hiệu lực thì đồng nghĩa với việc hiệu lực của hợp đồng phụ cũng chấm dứt. Tuy nhiên cũng có trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phụ không phụ thuộc vào nội dung của hợp đồng chính (Ví dụ: trong các giao dịch bảo đảm) nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích các bên trong khi hợp đồng chính vô hiệu.
Hợp đồng vì lợi ích của bên thứ ba là loại hợp đồng trong đó các bên đều phải thực hiện nghĩa vụ nhằm mang lại lợi ích cho người thứ ba. Tức là chỉ có người thứ ba mới được hưởng lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng. Đây là loại hợp đồng mà cả hai bên chủ thể tham gia hợp đồng cùng thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của bên thứ ba. Ví dụ: bên A thuê bên B vận chuyển hàng hóa cho bên C. Loại hợp đồng này được quy định cụ thể tại Điều 415 Bộ luật dân sự 2015
“Khi thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình; nếu các bên trong hợp đồng có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi tranh chấp được giải quyết”
Theo nội dung của của Điều 415 này cho thấy hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là loại hợp đồng mà một bên phải thực hiện nghĩa vụ để người thứ ba hưởng quyền.
Cuối cùng là loại hợp đồng có điều kiện thực hiện, là loại hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về điều kiện để bắt đầu thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên. Do đó việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên căn cứ vào sự kiện thực tế phát sinh trong tương lai được các bên xác định trong nội dung hợp đồng và phải phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu điều kiện phát sinh đó là công việc thì công việc đó phải thực hiện được.
Để đảm bảo tính hợp pháp và hạn chế tranh chấp xảy ra thì điều kiện của hợp đồng phải đảm bảo tính pháp lý nhất định:
– Sự kiện mà các bên lựa chọn để phát sinh quyền và nghĩa vụ không được trái pháp luật.
– Phải mang tính khách quan có thể xảy ra hoặc có thể thực hiện được (trong trường hợp điều kiện là công việc) trong tương lai sau khi họp đồn được giao kết.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: