Hiện nay, hoạt động môi giới thương mại đang là phương thức được nhiều doanh nghiệp lựa chọn trong hoạt động kinh doanh. Vậy môi giới thương mại là gì? Đặc điểm môi giới thương mại như thế nào? Luật Dương Gia dựa trên những căn cứ pháp lý để làm rõ những vấn đề trên.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm môi giới thương mại:
Môi giới thương mại là một trong bốn hoạt động trung gian thương mại mà
Tương tự với cách hiểu thông thường về môi giới, Điều 150
“Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết
2. Môi giới thương mại có những đặc điểm sau:
2.1. Chủ thể của quan hệ môi giới thương mại:
Chủ thể gồm bên môi giới và bên được môi giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân, có đăng kí kinh doanh để thực hiện dịch vụ môi giới thương mại và không nhất thiết phải có ngành nghề đăng kí kinh doanh trùng với ngành nghề kinh doanh của các bên được môi giới. Bên được môi giới không nhất thiết phải là thương nhân. Trong hoạt động môi giới thương mại, không phải tất cả các bên được môi giới đều có quan hệ môi giới thương mại với bên môi giới mà chỉ bên được môi giới nào kí hợp đồng môi giới với bên môi giới thì giữa họ mới phát sinh quan hệ môi giới thương mại.
2.2. Nội dung của hoạt động môi giới:
Nội dung của hoạt động môi giới rất rộng, bao gồm nhiều hoạt động như: Tìm kiếm và cung cấp thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các hoạt động về giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, giúp đỡ các bên được môi giới soạn thảo hợp đồng thi có yêu cầu. Mục đích của hoạt động môi giới là các bên được môi giới giao kết hợp đồng với nhau.
2.3. Hình thức hợp đồng môi giới thương mại :
Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi giới. Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới. Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới, cung cấp cơ hội giao kết hợp đồng giữa bên được môi giới với bên thứ ba. Luật thương mại 2005 không quy định về hình thức của hợp đồngmôi giới thương mại trong khi hầu hết các hoạt động trung gian thương mại như ủy thác, đại diện, đại lý thương mại lại quy định phải lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào khoản 1 Điều 153 LTM 2005 thì hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản, vì điều này quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau”. Do đó, Luật thương mại phải quy định rõ về hình thức của hợp đồng môi giới, tránh dẫn đến cách hiểu khác nhau về vấn đề này.
2.4. Phạm vi của hoạt động môi giới thương mại:
Theo
2.5. Quan hệ môi giới thương mại:
Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi giới. Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới, bên môi giới phải là thương nhân còn bên được môi giới không nhất thiết phải là thương nhân. Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới nhằm chắp nối quan hệ giữa các bên được môi giới với nhau. Hình thức của hợp đồng môi giới không được Luật thương mại 2005 quy định.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng môi giới thương mại :
Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới và bên được môi giới khi tham gia quan hệ hợp đồng môi giới được quy định trong LTM 2005, trong các luật về những hoạt động môi giới đặc thù như: Môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải, môi giới chứng khoán, môi giới bất động sản.
– Nghĩa vụ của bên môi giới
Theo các văn bản này, nhìn chung bên môi giới có những nghĩa vụ sau:
Bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu được giao để thực hiện việc môi giới và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoang thành viên môi giới;
Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới;
Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lí của các bên được môi giới, nhưng không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ;
Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có sự ủy quyền của bên được môi giới.
Như vậy, khi thực hiện hoạt động môi giới, bên môi giới được quyền yêu cầu bên được môi giới cung cấp mẫu hàng hóa, tài liệu để thực hiện việc môi giới.
Khi bên được môi giới cung cấp những tài liệu đó, thì bên môi giới phải có nghĩa vụ bảo quản nó và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoàn thành việc môi giới.
Nhằm bảo vệ quyền lợi của bên được môi giới, ngăn chặn khả năng bên môi giới thông đồng với bên thứ ba, Điều 151 khoản 2 LTM 2005 quy định: “bên môi giới không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới”. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, quy định này dẫn đến cách hiểu là bên môi giới sẽ không được quyền cung cấp thông tin có liên quan đến giao dịch mà họ chắp nối bởi trong nhiều trường hợp, việc cung cấp thông tin cho bên thứ ba có thể làm phương hại lợi ích của bên được môi giới. Do đó, quy định này có thể cản trở hoạt động môi giới trung thực của bên môi giới, làm cho hoạt động môi giới thương mại khó có thể trở thành chuyên nghiệp.
– Trách nhiệm của các bên
Trong quá trình môi giới, người môi giới phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên tham gia giao dịch mà họ dự định chắp nối. Do chỉ là người trung gian đứng giữa trong quan hệ giao dịch thương mại nên bên môi giới không phải chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của các bên được môi giới. Tuy nhiên, quy định về bảo đảm tư cách pháp lý của các bên được môi giới có lẽ chỉ phù hợp đối với dịch vụ môi giới mà bên được môi giới là thương nhân còn trong dịch vụ môi giới mà bên môi giới được môi giới là cá nhân (không có tư cách pháp nhân) việc xác định tư cách pháp lý của các bên được môi giới là rất khó và thực sự không cần thiết. Nhiệm vụ của người môi giới là làm sao dể các bên đi đến thống nhất thỏa thận ký kết hợp đồng. Còn việc hợp đồng được thực hiện như thế nào thì không phải là trách nhiệm của họ. Hơn nữa để bảo đảm tính khách quan, trung thực trong hoạt động môi giới, pháp luật cũng quy định bên môi giới không được tham gia vào thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có sự ủy quyền của bên được môi giới. Khi người môi giới được người được môi giới ủy quyền thực hiện hợp đồng thì giữa họ nảy sinh một quan hệ khác đó là quan hệ ủy quyền, chứ không phải là quan hệ môi giới. Bên cạnh những nghĩa vụ phải thực hiện, bên môi giới được hưởng một số quyền rất quan trọng và tương ứng với những quyền này là nghĩa vụ của bên được môi giới.
Quyền hưởng thù lao và được thanh toán các chi phí
Quyền quan trọng đầu tiên của bên môi giới là quyền hưởng thù lao và tương ứng với nó là nghĩa vụ trả thù lao của bên được môi giới. Thù lao môi giới là khoản tiền mà bên được môi giới phải tra cho bên môi giới khi bên môi giới đem đến cho bên được môi giới một cơ hội giao kết hợp đồng dự định. Khoản 1 Điều 153 LTM 2005 quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau”. Quy định này bảo đảm cho bên môi giới có trách nhiệm đối với bên hành vi của mình. Chỉ khi hoạt động trung gian môi giới có kết quả thì bên môi giới mới được hưởng thù lao (nếu các bên không có thỏa thuận khác). Dưới góc độ thực tiễn và pháp lý, việc xác định thời điểm được hưởng thù lao trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác sẽ hạn chế việc bên được môi giới trốn tránh nghĩa vụ trả thù lao trong quan hệ môi giới. Một quyền khác của bên môi giới là quyền được thanh toán các chi phí phát sinh liên quan đến việc môi giới. Điều 154 LTM 2005 quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên được môi giới phải thanh toán các chi phí hợp lí liên quan đến việc môi giới, kể cả khi việc môi giới không mang lại kết quả cho bên được môi giới”. Hiện nay, ở Việt Nam cũng như nhiều nước, thương nhân thực hiện dịch vụ môi giới như: môi giới bất động sản, môi giới bảo hiểm, môi giới mua bán doanh nghiệp thường thu một khoản phí nhất định có tính tượng trưng của bên được môi giới để trang trải trong hoạt môi giới gọi là phí giao dịch. Đây có thể hiểu là chi phí tối thiểu của bên môi giới trong việc tìm kiếm đối tác cho người nhờ môi giới trong một khoản thời gian nhất định. Nếu bên được môi giới không sử dụng dịch vụ của bên môi giới thì khoản thu đó có thể được xem là khoản chi phí cho việc môi giới, nhưng không có kết quả. Nhưng nếu giao dịch thành công thì bên môi giới sẽ được hưởng thù lao.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Luật thương mại 2005