Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các hệ thống văn bản pháp luật với những nội dung phù hợp để tạo cho người khuyết tật có một cuộc sống ổn định và vươn lên phát triển như những con người bình thường khác trong xã hội ngày nay. Cùng tìm hiểu khái niệm sức khỏe là gì? Chăm sóc sức khỏe người khuyết tật?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm sức khỏe là gì?
Theo quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới WHO đã đưa ra định nghĩa về sức khỏe của con người:
“Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật.”
Trên thực tế Sức khỏe được bao gồm các lại như sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và sức khỏe xã hội. Trong đó thì sức khỏe thể chất là loại sức khỏe được biết đến với các dấu hiệu như là sự sảng khoái và thoải mái về thể chất. Còn đối với sức khỏe tinh thần là sự biểu hiện của bộ máy tâm lý trong cơ thể người hoạt động một cách khoa học và hoàn toàn hợp lý, có hiệu quả và đương đầu một cách mềm dẻo trước những tình huống khó khăn mà vẫn có thể tìm lại được sự cân bằng cho mình. Ngoài ra thì không thể không nhắc đến loại sức khỏe xã hội được hiểu như là sự thể hiện ở sự thoải mái trong các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp giữa các cá nhân, tổ chức trong các mối quan hệ với nhau như: Xóm làng, Nơi công cộng, Cơ quan, ….
2. Chăm sóc sức khỏe người khuyết tật:
Quyền được chăm sóc sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của công dân và được quy định tại Điều 38 Hiến pháp nước Việt Nam, đặc biệt là việc chăm sóc sức khỏe đối với những người khuyết tật, họ gặp rất nhiều những khó khăn trong việc chăm sóc sức khỏe của bản thân thì pháp luật nước ta cần phải có những quy định cụ thể chế độ chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật này trong hệ thống pháp luật nước mình nhằm mục đích bảo đảm cho người khuyết tật được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe một cách bình đẳng như những người bình thường khác. Có thể hiểu chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật bào gồm tổng hợp các quy định về quyền của họ được nhà nước, cồng đồng xã hội thực hiện các hoạt động phòng bệnh, khám chữa bệnh, chỉnh hình, phục hồi chức năng giúp họ ổn định sức khỏe, vượt qua những khó khăn bệnh tật, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
2.1. Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú:
Tại Điều 21 Luật người khuyết tật 2010 quy định việc chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật như sau:
“Điều 21. Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú
1. Trạm y tế cấp xã có trách nhiệm sau đây:
a) Triển khai các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức phổ thông về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; hướng dẫn người khuyết tật phương pháp phòng bệnh, tự chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng;
b) Lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe người khuyết tật;
c) Khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với phạm vi chuyên môn cho người khuyết tật.
2. Kinh phí để thực hiện quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này do ngân sách nhà nước bảo đảm.”
Như vậy, theo quy định trên thì người khuyết tật có các quyền như quyền được tuyên truyền và tham gia tuyên truyền, giáo dục về sức khỏe tại cộng đồng, người khuyết tật được tham gia thực hiện các hoạt động chuyên môn về y tế tại cộng đồng, được tham gia công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình, không chỉ có vậy mà người khuyết tật còn được vận động, hướng dẫn nuôi trồng và sử dụng thuốc nam tại gia đình để phòng chữa một số chứng bệnh thông thường, được nhân viên y tế cơ sở sơ cứu ban đầu, chăm sóc bệnh thông thường và phục hồi chức năng tại cộng đồng.
Đối với người khuyết tật, do có những đặc trưng về tình trạng bênh, tật, nên với họ, khó có thể đạt được những trạng thái thoải mái với tiêu chuẩn của người bình thường. Bởi lẽ, mong muốn lớn nhất của họ có lẽ là được khôi phục, hỗ trợ khôi phúc hoặc được thực hiện những kĩ năng để ổn định sức khỏe, có thể tự thực hiện được những hoạt động sinh hoạt, phục vụ cho chính bản thân, gia đình và xã hội, nhằm tiến đến hòa nhập cộng đồng. Vì thế, sức khỏe của người khuyết tật là tình trạng ổn định toàn diện về thể chất, tâm thần, xã hội. Theo đó, việc chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật vần quan tâm hợp lý đến cả ba mặt: Sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần và sức khỏe xã hội.
Điều này đã được chứng minh trong các công ước của WHO cũng như pháp luật các nước, trong đó có Việt Nam đã đặt ra 5 quan điểm cơ bản, chủ yếu chỉ đạo công tác chăm sóc sức khỏe con người, trong đó có người khuyết tật, chẳng hạn như: Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội; đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển; thực hiện chăm sóc sức khỏe toàn diện; xã hội hóa các hoạt động chăm sóc sức khỏe; phát triển nhân lực y tế thực hiện chăm sóc sức khỏe. Từ đó, chăm sóc sức khỏe người khuyết tật bao gồm chăm sóc y tế, chăm sóc ngoài y tế. Sự chăm sóc này được hiểu trong mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại giữa các yếu tố môi trường bên ngoài (thức ăn, nước uống…) với yếu tố môi trường bên trong (di truyền, gen…); giữa các hoạt động đề phòng sự phát sinh ra bệnh tật, phát hiện sớm bệnh tật đến việc điều trị kịp thời, phục hồi sức khỏe cho người khuyết tật.
Có thể nói, đây được coi là mô hình chăm sóc sức khỏe người khuyết tật theo quan điểm hiện đại. Theo đó, mô hình này đã khắc phục được những hạn chế, bất cập của quan điểm chăm sóc sức khỏe trước đây; mang nhiều lợi ích về y học, kinh tế – xã hội cho người khuyết tật cũng như sự phát triển quốc gia.
2.2. Khám bệnh, chữa bệnh:
Tại Điều 22 Luật người khuyết tật 2010 quy định việc khám chữa bênh cho người khuyết tật như sau:
Điều 22. Khám bệnh, chữa bệnh
1. Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh và sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp.
2. Người khuyết tật được hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.
3. Gia đình người khuyết tật có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh.
4. Người khuyết tật là người mắc bệnh tâm thần ở trạng thái kích động, trầm cảm, có ý tưởng, hành vi tự sát hoặc gây nguy hiểm cho người khác được hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phí đi lại và chi phí điều trị trong thời gian điều trị bắt buộc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
5. Khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ thực hiện khám bệnh, chữa bệnh cho người khuyết tật.
Như vậy, trong quá trình khám, chữa bệnh cho người khuyết tật thì đối tượng này được đảm bảo các quyền và lợi ích theo quy định của pháp luật như những công dân bình thường khác. Ngoài ra, do những đặc điểm riêng về sức khỏe của người khuyết tật, pháp luật về người khuyết tật còn quy định người khuyết tật còn được Nhà nước bảo đảm để khám, chữa bệnh sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp và được cơ sở khám, chữa bệnh thực hiện các biện pháp khám bệnh và chữa bệnh phù hợp nhất đối với từng người khuyết tật và về thể trạng của họ như thế nào. Người khuyết tật được ưu tiên khám chữa bệnh trước, khi người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật là trẻ em và người già,…
2.3. Trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
Tại Điều 23 Luật người khuyết tật 2010 quy định về trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho người khuyết tật như sau:
Điều 23. Trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
1. Thực hiện biện pháp khám bệnh, chữa bệnh phù hợp cho người khuyết tật.
2. Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khuyết tật có thai theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
3. Tư vấn biện pháp phòng ngừa và phát hiện sớm khuyết tật; xác định khuyết tật bẩm sinh đối với trẻ em sơ sinh để kịp thời có biện pháp điều trị và chỉnh hình, phục hồi chức năng phù hợp.
4. Thực hiện cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ khám bệnh, chữa bệnh chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật.
Như vậy, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải thực hiện việc khám, chữa bệnh cho người khuyết tật phải phù hợp với từng đối tượng khuyết tật. Các cơ sở thực hiện việc ưu tiên hám bệnh, chữa bệnh cho người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khuyết tật có thai theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Luật người khuyết tật 2010