Kiểm sát tiếp nhận nguồn tin về tội phạm là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp quyền năng pháp lý thuộc nội dung công tác kiểm sát do pháp luật tố tụng hình sự quy định để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với vụ việc, đối tượng có dấu hiệu tội phạm.
Mục lục bài viết
1. Hoạt động kiểm sát nguồn tin về tội phạm là gì?
Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân là hệ thống cơ quan nhà nước được Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước quy định trao cho quyền hạn được thực hiện nhiệm vụ kiểm sát nguồn tin về tội phạm. Đây là chức năng đặc thù của Viện kiểm sát cùng chức năng thực hành quyền công tố, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để VKS thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Có ý kiến cho rằng, tham gia “kiểm tra việc chấp hành pháp luật” trong TTHS không chỉ có Viện kiểm sát mà còn có các chủ thể khác như người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân, công dân và toàn thể xã hội nói chung. Quyền của các chủ thể khác được “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước” trong lĩnh vực Tố tụng hình sự xuất phát từ những chế định quan trọng của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và địa vị pháp lý cơ bản của công dân. Về bản chất, các hoạt động của các chủ thể này như theo dõi, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng báo cáo tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do, quyết định, yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm.. cũng ảnh hưởng đến “phát hiện kịp thời vi phạm” và “loại trừ vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân” trong Tố tụng hình sự.
Nhưng không thể coi đây là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự mà chỉ là các hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát và hoạt động giám sát của các chủ thể khác chính là một số quyền mà pháp luật cho phép chỉ có Viện kiểm sát mới có khi thực hiện hoạt động kiểm sát, các quyền này cũng đồng thời là nghĩa vụ của Viện kiểm sát, tạo nên sự khác biệt về phương thức thực hiện hoạt động kiểm sát mà các chủ thể khác không có. Quyền của VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng hình sự được thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên.
Các quyền và nghĩa vụ của VKS đặt trong mối quan hệ tổng thể tạo ra một phương thức kiểm sát đặc trưng, cho phép phân biệt dễ dàng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát với hoạt động giám sát (bao gồm cả ủy ban Tư pháp Quốc hội). Phương thức kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS thể hiện ở việc kiểm tra, giám sát một cách liên tục – cụ thể – trực tiếp đối với các hoạt động tố tụng. Tính liên tục thể hiện ở chỗ trong toàn bộ quá trình giải quyết một vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ trong tất cả các giai đoạn từ khởi tố – điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Từ khi một người mới bị là tình nghi cho khi người đó được xóa án tích.
Tính cụ thể của phương thức kiểm sát chính là việc Viện kiểm sát giám sát chi tiết, tỉ mỉ các hoạt động cụ thể: khám nghiệm hiện trường, hỏi cung, lấy lời khai … Viện kiểm sát kiểm sát trực tiếp đối với các hoạt động tố tụng thể hiện ở việc có mặt, theo sát, nhắc nhở kịp thời khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động giải quyết vụ án.
Tính trực tiếp, cụ thể, liên tục của phương thức kiểm sát không nên | hiểu là Viện kiểm sát phải có mặt, theo dõi và giám sát mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi. Tùy vào điều kiện thực tế về nhân sự, số lượng vụ án, tính chất từng loại vụ án và quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà Viện kiểm sát sẽ quyết định khi nào phải kiểm sát trực tiếp diễn biến của một hoạt động tố tụng và khi nào chỉ cần kiểm sát thông qua kết quả hoạt động tố tụng.
Trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền kiểm sát do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Mục đích công tác kiểm sát tiếp nhận nguồn tin về tội phạm nhằm đảm bảo mọi thông tin về tội phạm đều phải được tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật.
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp, BLTTHS, Luật tổ chức và các khái niệm, phạm vi công tác kiểm sát, theo tác giả, kiểm sát tiếp nhận nguồn tin về tội phạm là Việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp quyền năng pháp lý thuộc nội dung công tác kiểm sát do pháp luật tố tụng hình sự quy định để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với vụ việc, đối tượng có dấu hiệu tội phạm..
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin tội phạm là hoạt động giám sát liên tục, cụ thể, trực tiếp các hoạt động cơ quan điều tra thực hiện trong suốt quá trình tiếp nhận, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm chúng ta cần phân biệt với chức năng thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm là hoạt động thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận, xử lý và giải quyết đối với những thông tin có dấu hiệu tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp theo quy định của pháp luật. Các hoạt động thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm như phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong trường hợp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không được khắc phục…chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm trong tố tụng hình sự là hai chức năng độc lập nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Từ khi cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin bảo về tội phạm thì đã phát sinh hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát.
2. Chủ thể kiểm sát nguồn tin tội phạm:
Kể từ khi Hiến pháp năm 1959 ghi nhận VKSND là hệ thống cơ quan Nhà nước và được cụ thể hóa bằng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Trải qua quá trình phát triển của đất nước và lịch sử xây dựng pháp luật qua từng thời kỳ khác nhau nhưng nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của Viện kiểm sát là chức năng THQCT và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cụ thể tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “VKSND thực hành quyền công và kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo đó Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, cá nhân, tổ chức trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá tình giải quyết vụ án hình sự, giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân, gia đình, hành chính, kinh doanh, thương mại …. Viện kiểm sát tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm là chức năng đặc thù của Viện kiểm sát cùng với chức năng THQCT, nhằm bảo đảm việc thực hiện các quy định, pháp chế XHCN, bảo vệ quyền công dân.
Hệ thống tổ chức VKSND được xây dựng theo bốn cấp VKND tối cao, VKSND cấp cao; VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện. Theo luật tổ chức VKSND năm 2014 các cơ quan này trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình trong việc tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
3. Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận nguồn tin về tội phạm:
Hoạt động tuân theo pháp luật trong quá trình tiếp nhận nguồn tin về tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của luật TTHS chính là đối tượng của công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm được quy định cụ thể tại Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự, công dân có thể tố giác tội phạm với CQĐT trong công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của Viện KSND tối cao; CQĐT của VKS Quân sự Trung ương, Bộ đội Biên phòng, Cơ quan Hải quan, Cơ quan Kiểm Lâm, Lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi thực hiện nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý mà phát hiện mà tiếp nhận nguồn tin về tội phạm thuộc quyền hạn điều tra của cơ quan mình thì tiến hành giải quyết. Tương ứng với hệ thống các cơ quan trên là hoạt động của người tiến hành tố tụng bao gồm các Thủ trưởng, Phó thủ trưởng, Điều tra viên, ….
Theo quy định trên thì hiện nay BLTTHS quy định hai nhóm chủ thể chính là Cơ quan điều tra và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
– Theo luật tổ chức Cơ quan điều tra, hiện nay hệ thống CQĐT ở Việt Nam bao gồm ba hệ thống là hệ thống CQĐT của công an nhân dân, hệ thống CQĐT của quân đội nhân dân và CQĐT của VKSND. Các CQĐT trên là các CQĐT chuyên trách, được luật trao cho nhiệm vụ, quyền hạn điều tra trong hầu hết các vụ án hình sự có dấu hiệu tội phạm. Do đó, các cơ quan này là cơ quan chủ yếu nhất hoạt động tiếp nhận nguồn tin về tội phạm.
– Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra là hệ thống cơ quan nhà nước được quy định tại Điều 35 của BLTTHS năm 2015 và
Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát đối với việc tiếp nhận nguồn tin về tội phạm từ khi các cơ quan có thẩm quyền điều tra tiếp nhận nguồn tin về tội phạm cho đến khi quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự và ban hành thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm.