Định tội danh là tiền đề, là cơ sở cho việc sự và áp dụng các quy phạm pháp luật khác của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự vào thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Chẳng hạn, trong quá trình xét xử, thì chỉ sau khi thực hiện xong việc định tội danh, Toà án mới có cơ sở để giải quyết vấn đề áp dụng hình phạt này hay hình phạt khác đối với người phạm tội...
Trong khoa học luật hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự được hiểu là một quá trình đa dạng, phức tạp được thực hiện qua các giai đoạn nhất định như giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của pháp luật hình sự về không gian và thời gian, định tội danh, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, xóa án tích… Trong đó, định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản, một nội dung quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật hình sự và là một trong những biện pháp đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc sống.
Nếu Bộ luật hình sự thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý của Nhà nước đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì định tội danh chính là việc xác định sự phù hợp của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng đã được quy định trong Bộ luật hình sự.
Trong lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, định tội danh được hiểu dưới hai ý nghĩa: Với ý nghĩa thứ nhất, định tội danh là một quá trình logic nhất định, là hoạt động của cán bộ có thẩm quyền trong việc xác nhận sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm được quy định trong một quy phạm pháp luật thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự.
Ý nghĩa này được thể hiện dưới hai khía cạnh:
a) Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội do kẻ phạm tội thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể do điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định hay không?
b) Đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan. Bởi vậy, để thực hiện đúng đắn quá trình này, đòi hỏi phải có điều kiện, cơ sở phương pháp luận, biện pháp logic và kỹ thuật pháp lý. Hơn nữa, định tội danh là một hoạt động do cán bộ pháp lý tiến hành, họ là những người được trang bị những kiến thức về thế giới quan, có kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm công tác. Trong quá trình định tội danh, tư duy của họ bắt nguồn từ việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật pháp lý và phát triển theo những quy luật logic nhất định.
c) Với ý nghĩa thứ hai, định tội danh là sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đó xảy ra trong thực tế mà cán bộ có thẩm quyền đang xem xét, nhằm xác định hành vi đó thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự. Nói cách khác, với ý nghĩa này thì định tội danh là kết luận về sự trùng hợp giữa một trường hợp phạm tội cụ đang được xem xét với khái niệm về loại tội phạm này được ghi nhận trong pháp luật hình sự, tức là sự lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi phạm tội cụ thể đang được xem xét và từ đó đưa ra kết luận là hành vi ấy có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm do pháp luật hình sự quy định hay không. Như vậy, định tội danh thực chất là sự xác định về mặt pháp lý đối với hành vi phạm tội đã xảy ra trong thực tế. Do đó, điều quan trọng trong quá trình định tội danh là phải tìm được những dấu hiệu cơ bản, điển hình và quan trọng nhất, phải có những dấu hiệu cần và đủ để xác định thực chất của hành vi xảy ra trên thực tế. Đồng thời, khi đối chiếu các dấu hiệu đó với các dấu hiệu được quy định trong một quy phạm pháp luật hình sự, phải đưa ra kết luận rằng: nhà làm luật khi ban hành quy phạm pháp luật này là để áp dụng cho trường hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét.
Mặt khác, định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và được tiến hành theo bốn bước:
a) Bước một, xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự phù hợp với hiện thực khách quan;
b) Bước hai, nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành;
c) Bước ba, lựa chọn đúng điều (các điều) luật tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm đối với tội phạm cụ thể để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đó với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện;
d) Bước bốn, sau khi đã so sánh, đối chiếu và kiểm tra đầy đủ và chính xác xong, thì ra một văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và bảo đảm sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi phạm tội thực tế đã được thực hiện với cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, áp dụng quy phạm pháp luật hình sự là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành theo một trật tự nhất định. Trật tự đó có thể được hiểu như sau: trước hết, tội phạm là một loại hành vi vi phạm pháp luật nói chung, cho nên khi định tội danh, cán bộ điều tra, truy tố, xét xử phải xác định hành vi xảy ra trên thực tế có vi phạm pháp luật không? Nếu là hành vi vi phạm pháp luật, thì vi phạm pháp luật nào? vi phạm pháp luật hành chính, pháp luật dân sự, pháp
Ví dụ: hành vi cố ý giết người có thể kết luận ngay là hành vi phạm tội, nếu người thực hiện hành vi là người từ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Nhưng hành vi mượn tiền rồi không trả đúng hẹn thuộc loại hành vi vi phạm pháp luật nào, thì việc kết luận không đơn giản, mà nó đòi hỏi phải xem xét thêm các tình tiết khác. Bên cạnh đó, trong quá trình phân định loại hành vi vi phạm pháp luật, cần chú ý đến những tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi như sự kiện bất ngờ; gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự nhưng chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự; tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể của hành vi; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết và một số trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi khác chưa được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành như: chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; sự rủi ro chấp nhận được về kinh tế hoặc nghề nghiệp… Tuy nhiên, “mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi” là một khái niệm trừu tượng, rất khó cho việc áp dụng pháp luật, vì vậy, các nhà làm luật có xu hướng định lượng hóa mức độ gây thiệt hại cho xã hội để việc áp dụng pháp luật được thống nhất và chính xác hơn.
Như vậy, trong quá trình định tội danh, các cán bộ điều tra, truy tố, xét xử cần phân tích, xác định và so sánh các dấu hiệu của một hành vi xâm hại đến một quan hệ xã hội xảy ra trên thực tế với các loại quy phạm pháp luật khác nhau để từ đó xác định một loại quy phạm pháp luật và ngành luật điều chỉnh quan hệ xã hội đó. Trong quá trình này, cần đặc biệt làm sáng tỏ mức độ nguy hiểm của hành vi, bởi đó là căn cứ để phân định loại vi phạm pháp luật. Tuy vậy, trong mỗi điều luật, người làm luật chỉ liệt kê một tính chất, mức độ nguy hiểm mà không liệt kê hết các đặc tính không lặp lại của mỗi tội phạm cụ thể – mà những đặc tính này cần phải được các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử tính đến trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ án cụ thể.
Theo pháp luật hình sự hiện hành, định tội danh là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự tái thẩm, giám đốc thẩm. Ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, theo quy định tại Điều 5 và Điều 153 Bộ luật tố tụng hình sự, khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tuy nhiên, trong khi xét xử,
Tuy việc định tội danh được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, nhưng trên thực tế việc bảo đảm định tội danh đúng, đầy đủ và chính xác ở ngay giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can là rất khó. ở giai đoạn này, định tội danh chỉ mang tính chất sơ bộ, tương đối, bởi lẽ các tình tiết của vụ án chưa được xác định đầy đủ.
Ví dụ: khi phát hiện một xác chết và thấy có dấu hiệu là đã bị tấn công, có thể loại trừ chết tự nhiên hoặc tự sát. Lúc đó, cơ quan có thẩm quyền có thể khởi tố vụ án giết người theo Điều 93
Pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ở giai đoạn sau phải kiểm tra lại và định tội danh lại cho chính xác hơn việc định tội danh của giai đoạn trước nhằm mục đích xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Quá trình định tội danh luôn chịu sự giám sát của Viện kiểm sát trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự. Hoạt động kiểm tra, giám sát của quá trình định tội danh được tiến hành trên hai phương diện. Phương diện thứ nhất, quá trình điều tra có được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật không? và, phương diện thứ hai, việc định tội danh có căn cứ vào pháp luật không?. Như vậy, định tội danh là một quá trình năng động và phức tạp, được tiến hành qua tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, ở mỗi giai đoạn, quá trình định tội danh mang những tính chất và đặc điểm khác nhau.
Tuy vậy, quá trình định tội danh dù ở giai đoạn tố tụng nào cũng phải đạt được yêu cầu là phải đúng, chính xác và đầy đủ. Định tội danh đúng có nghĩa là từ quan điểm của đạo luật hình sự đánh giá đúng bản chất chính trị – xã hội và pháp lý của tội phạm đã thực hiện, xác định được sự phù hợp của hành vi phạm tội đã thực hiện với các dấu hiệu được chỉ ra trong luật mô tả ở dạng khái quát hành vi đó.
Định tội danh phải chính xác tức là cần phải có việc viện dẫn từng điều luật cụ thể ở Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, nếu điều luật có nhiều khoản nhiều điểm, thì phải chỉ rõ các khoản, điểm tương ứng của điều luật đó. Trong trường hợp phạm tội do đồng phạm, phạm tội chưa đạt, có các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… thì ngoài việc viện dẫn điều luật, khoản, điểm quy định tội phạm tương ứng ở Phần các tội phạm Bộ luật hình sự, còn phải viện dẫn cả các điều luật về đồng phạm, phạm tội chưa đạt, các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng ở Phần chung Bộ luật hình sự.
Định tội danh phải đầy đủ thể hiện ở chỗ: trong thực tiễn có bao nhiêu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện mà các điều luật của Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, thì phải được định bấy nhiêu tội danh. Yêu cầu này không cho phép áp dụng nguyên tắc thu hút hành vi phạm tội này vào hành vi phạm tội khác trong việc định tội danh.
Tin Để thực hiện được việc định tội danh đúng, chính xác và đầy đủ, chúng ta cần làm rõ khái niệm định tội danh. Về khái niệm định tội danh, hiện nay có các quan điểm khác nhau kể cả trong nước và ngoài nước. ở nước ngoài, có một số nhà luật học đã đưa ra các quan điểm của mình về định tội danh. Chẳng hạn, Viện sĩ Kudriautxev V.N cho rằng “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm do quy phạm pháp luật hình sự quy định”. Còn nhà khoa học luật tố tụng hình sự A.C. Sliapôtrnhikêu thì cho rằng: “Định tội danh là một giai đoạn của hoạt động bảo vệ pháp luật do các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử thực hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật hình sự và dựa vào các tình tiết thể hiện sự nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể để xác định dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng với hành vi đó”.
Ở Việt Nam, cũng có một số nhà khoa học luật hình sự khi bàn về khái niệm định tội danh đã đưa ra một số quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, định tội danh là một trong những giai đoạn hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử tiến hành. Các cơ quan này căn cứ vào các tình tiết của vụ án, xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể nào đó để quyết định xem hành vi đó có đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm đã được pháp luật hình sự quy định hay chưa.
Quan điểm thứ hai cho rằng, định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định.
Quan điểm thứ ba cho rằng “định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến hành bằng cách: trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, nhằm xác định được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hoá và phân hoá trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật”).
Định tội danh chính là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự nhằm xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định. Định tội danh được tiến hành đồng thời ba quá trình:
Quá trình thứ nhất: xác định chính xác, khách quan, toàn diện, đầy đủ các tình tiết thực tế của vụ án. Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải xác định được tất cả các tình tiết cần thiết của vụ án phù hợp với hiện thực khách quan. Để định tội danh đúng cần phải xác định đầy đủ và chính xác các tình tiết cần thiết của hành vi phạm tội, các tình tiết này liên quan đến khách thể và mặt chủ quan của tội phạm.
Có thể nói, xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, tức là phải xem xét hành vi phạm tội trên tất cả các mặt của các yếu tố cấu thành tội phạm trong một tổng thể có mối quan hệ biện chứng với nhau, không tách rời nhau. Trên cơ sở tất cả các chứng cứ đã thu thập được, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải kiểm tra, đánh giá một cách toàn diện, khách quan, kể cả chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, chứng cứ gốc, các lời khai và vật chứng…
Quá trình thứ hai: nhận thức đúng nội dung các quy định trong Bộ luật hình sự. Nhận thức đúng các quy định của Bộ luật hình sự trong Phần chung cũng như từng tội phạm cụ thể ở Phần các tội phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với định tội danh. Việc tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật hình sự trong khi định tội danh là điều bắt buộc, đồng thời là để thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, pháp luật không thể phản ánh được hết tất cả các mặt của đời sống xã hội vốn rất sinh động và phong phú mà chỉ ghi nhận những nét khái quát, phổ biến, đặc trưng của thực tế để từ đó áp dụng cho các trường hợp cụ thể trong cuộc sống. Tính chất khái quát và phổ biến của quy phạm pháp luật và yêu cầu phải áp dụng nó một cách cụ thể là hai mặt của một sự thống nhất biện chứng, đòi hỏi sự phản ánh chính xác, theo kịp và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của hoạt động lập pháp và vai trò quan trọng của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt động áp dụng pháp luật.
Để định tội danh đúng, người tiến hành tố tụng phải lựa chọn đúng quy phạm pháp luật, đối chiếu, so sánh chính xác, đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong điều luật với các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện. Nếu đối chiếu thấy có sự phù hợp giữa các tình tiết của hành vi phạm tội cụ thể với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong một điều của Bộ luật hình sự, thì phải định tội danh theo điều luật đó. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, sau khi xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết khách quan của vụ án, người tiến hành định tội danh phải xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện có phải là tội phạm không và nếu là tội phạm thì đó là loại tội gì, nằm trong chương nào của Bộ luật hình sự, tiếp theo mới xác định hành vi phạm tội đó thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định ở điều nào và cuối cùng là điểm, khoản nào của điều luật. Tất nhiên, sự phân chia thành từng bước này chỉ mang tính chất tương đối, có ý nghĩa về mặt lý luận, nhiều trường hợp các bước này được thực hiện đồng thời trong tư duy của người tiến hành định tội danh.
Quá trình thứ ba: xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội thực tế với các dấu hiệu được quy định trong các yếu tố cấu thành tội phạm của luật hình sự. Việc định tội danh không phải là một hoạt động đơn giản chỉ cần biết tuân thủ các quy định của pháp luật là đủ, mà đó là một hoạt động nghiệp vụ pháp lý phức tạp, một hoạt động mang tính nhận thức của người tiến hành định tội danh.
Qua sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng, quá trình thứ nhất và quá trình thứ hai là tiền đề cho việc thực hiện quá trình thứ ba và có thể khẳng định, pháp luật hình sự sẽ không được áp dụng đúng đắn, công bằng nếu như các tình tiết của vụ án không được xác định một cách chính xác, khách quan, toàn diện và đầy đủ. Việc làm sáng tỏ nội dung của quy phạm cần được áp dụng là tiền đề thứ hai của việc xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội thực tế với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự. Nếu như xác định được mối liên hệ giữa hành vi đã thực hiện và quy phạm pháp luật được nhận thức một cách đầy đủ, chính xác, thì có thể kết luận rằng đã xác định được chân lý khách quan khi định tội danh, còn nếu không thì việc định tội danh sẽ là sai lầm.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, quá trình định tội danh thường do các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân tiến hành. Nhưng bên cạnh đó, các cán bộ khoa học, tác giả các bài báo… trong quá trình nghiên cứu cũng tiến hành định tội danh theo sự nghiên cứu của mình, do đó khoa học luật hình sự phân chia định tội danh thành hai dạng:
a) Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt Nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước uỷ quyền thực hiện. Đó chính là những người có thẩm quyền trực tiếp tiến hành hoạt động tố tụng hình sự đối với vụ án hình sự cụ thể như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Các kết quả của việc định tội danh do các chủ thể này tiến hành là các hậu quả pháp lý hình sự như khởi tố vụ án hình sự, điều tra vụ án, khởi tố bị can, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc ra bản án kết tội;
b) Định tội danh không chính thức là sự đánh giá không phải về mặt Nhà nước có tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể. Chủ thể của dạng định tội danh này không nhất thiết là những người nhất định nào, nhưng thông thường họ là các nhà khoa học, các luật gia trong lĩnh vực tư pháp hình sự như các tác giả của các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, bài báo… Một đặc điểm nổi bật của dạng định tội danh này là sau khi định tội danh không phát sinh quyền hoặc nghĩa vụ trong các quan hệ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự mà chỉ là sự thể hiện các quan điểm hay ý kiến riêng của các tác giả.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, việc định tội danh đúng có ý nghĩa rất lớn không chỉ về pháp luật mà cả về mặt chính trị – xã hội. Bởi lẽ, định tội danh đúng sẽ là cơ sở cho việc định khung hình phạt đúng và là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời để áp dụng chính xác các quy định của Bộ luật hình sự về các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, hình phạt, tái phạm, quyết định hình phạt trong trường hợp nhiều tội phạm… Định tội danh đúng còn là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, thời hạn tạm giam, thẩm quyền điều tra, thẩm quyền xét xử… góp phần có hiệu quả vào việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Ngược lại, nếu định tội danh sai sẽ dẫn đến các hiệu quả tiêu cực như không bảo đảm được tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật của hình phạt được quyết định, làm oan người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, thậm chí xâm phạm nghiêm trọng danh dự và nhân phẩm, các quyền tự do của công dân cũng như xâm phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời còn làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm…
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm của định tội danh như sau: Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định.