Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm. Việc nghiên cứu và đưa ra khái niệm về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng và thực hiện các quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm.
HĐXX phúc thẩm là chủ thể trực tiếp thực hiện việc xét xử tại Toà án cấp phúc thẩm. Vì vậy, khái niệm thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm cần được xác định dựa trên cơ sở khái niệm thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm. Trước hết, cần tìm hiểu thẩm quyền của Toà án là gì?
“Thẩm quyền” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa học pháp lý. Theo Từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền là “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật”. Theo Từ điển Luật học thì thẩm quyền là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định”. Theo Giáo trình Luật tố tụng hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội thì thẩm quyền là “quyền hạn theo pháp luật quy định, của cơ quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước nhất định”]. Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước do pháp luật quy định được hiểu là thẩm quyền của các cơ quan nhà nước đó”. Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên thì “thẩm quyền là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một tổ chức hoặc một cán bộ, công chức nhà nước được thực hiện công việc trong các lĩnh vực và phạm vi nhất định”. Mặc dù có nhiều cách đưa ra khái niệm khác nhau về thẩm quyền, tuy nhiên tựu chung đều có thể thấy khái niệm thẩm quyền phải gắn với một chủ thể nhất định và thẩm quyền phải do pháp luật quy định. Theo ý kiến của tác giả, thẩm quyền có thể được hiểu là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một chủ thể nhất định được thực hiện công việc trong một lĩnh vực, phạm vi nhất định.
Theo Từ điển Luật học, thẩm quyền của Toà án là “quyền xem xét và quyền giải quyết vụ án (bao gồm ra bản án và các quyết định khác) trong hoạt động xét xử của
– Thẩm quyền về xét xử, để xác định Tòa án nào có thẩm quyền xét xử một vụ án cụ thể, Tòa án được xét xử những vụ án nào.
Giới hạn và phạm vi xét xử, để xác định quyền của Toà án được xem xét những vấn đề gì khi xét xử.
Thẩm quyền quyết định, để xác định quyền hạn giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề đảm bảo cho việc xét xử hoặc các vấn đề khác của tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động xét xử.
Thẩm quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử là cơ sở để xác định thẩm quyền quyết định của Tòa án vì Tòa án chỉ có thể quyết định những vấn đề trong phạm vi cho phép và đã được xem xét. Mặt khác, những vấn đề thuộc thẩm quyền xem xét của Toà án cũng chỉ có ý nghĩa khi được giải quyết bằng những quyết định của Hội đồng xét xử.
Các cách nhìn nhận trên đều cho thấy điểm chung về thẩm quyền của Toà án được thừa nhận là tập hợp các quyền khác nhau của Tòa án bao gồm: quyền xem xét giải quyết vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền về hình thức) và quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó (thẩm quyền về nội dung). Quyền xem xét giải quyết vụ việc và quyền ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó là hai nội dung quan trọng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền của Toà án. Theo đó, thẩm quyền của Toà án có thể được hiểu là tập hợp các quyền mà pháp luật quy định cho Toà án được xem xét và quyết định những vấn đề về nội dung của vụ việc.
Trong tố tụng hình sự, thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm cũng bao gồm hai mặt có mối quan hệ biện chứng với nhau: thẩm quyền về nội dung và thẩm quyền về hình thức. Thẩm quyền về hình thức của Toà án cấp phúc thẩm xác định các vụ án hình sự, các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm nào thuộc thẩm quyền xem xét của Toà án và phạm vi, mức độ xem xét của Toà án cấp phúc thẩm đối với vụ án đó. Thẩm quyền về nội dung của Toà án cấp phúc thẩm xác định các quyền của Toà án cấp phúc thẩm trong việc quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án khi xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị.
Để đưa ra được khái niệm “thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm”, cần làm rõ một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Toà án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là Toà án cấp trên trực tiếp của Toà án đã xét xử sơ thẩm, cụ thể:
Tại Toà án cấp phúc thẩm, chủ thể trực tiếp tiến hành thủ tục xét xử phúc thẩm tại phiên tòa phúc thẩm và ra bản án để giải quyết vụ án hình sự theo sự phân công của Chánh án Toà án cấp phúc thẩm là HĐXX phúc thẩm. HĐXX phúc thẩm bao gồm ba Thẩm phán, tuy nhiên việc xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn sẽ do một Thẩm phán tiến hành.
So với HĐXX sơ thẩm, HĐXX phúc thẩm có những điểm khác biệt như không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, số lượng Thẩm phán tham gia xét xử nhiều hơn hay trình độ của Thẩm phán tham gia xét xử cao hơn. Điều này xuất phát từ tính chất của xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, HĐXX phúc thẩm có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, khắc phục kịp thời những thiếu sót, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm. Đồng thời, thông qua việc xét xử các vụ án, HĐXX phúc thẩm cũng hướng dẫn cho Tòa án cấp dưới và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác trong việc nhận thức, áp dụng pháp luật đúng đắn, thống nhất. Do đó, thành phần HĐXX phúc thẩm đòi hỏi tính chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm so với HĐXX sơ thẩm.
Thứ hai, về cơ sở phát sinh thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm phát sinh theo nhiệm vụ giải quyết từng vụ án cụ thể, theo sự phân công của Chánh án Toà án cấp phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị hợp lệ đối với bản án hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bởi những chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị. Những kháng cáo, kháng nghị hợp lệ khiến cho vụ án hình sự trở thành đối tượng cần được xem xét theo thủ tục phúc thẩm, đó là cơ sở đầu tiên phát sinh thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Kháng cáo, kháng nghị được coi là hợp lệ khi đảm bảo đầy đủ các điều kiện về: đối tượng của kháng cáo, kháng nghị; chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị; phạm vi kháng cáo, kháng nghị; thời hạn kháng cáo, kháng nghị (bao gồm kháng cáo quá hạn nhưng có lý do chính đáng và được Hội đồng xét kháng cáo quá hạn chấp nhận) và hình thức kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. “Về hình thức, kháng cáo, kháng nghị phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp cao hơn; về nội dung, kháng cáo, kháng nghị phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của tòa án cấp xét xử thứ hai đồng thời là cấp xét xử cuối cùng”.
Thứ ba, về đối tượng của thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Cần phải khẳng định đối tượng của thẩm quyền xét xử phúc thẩm không phải là những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà chính là các vụ án hình sự bởi HĐXX phúc thẩm không chỉ xem xét lại bản án mà còn xét xử lại vụ án về mặt nội dung, xác định lại thực chất vụ án. HĐXX phúc thẩm có thẩm quyền xem xét và quyết định đối với vụ án hình sự mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Khi đó, vụ án hình sự không phải là đối tượng có thể được xem xét theo thủ tục phúc thẩm nữa. Nếu sau đó phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án hoặc có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án sơ thẩm và Tòa án cấp sơ thẩm không biết được khi ra bản án đó thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật có thể trở thành đối tượng xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ tư, về nội dung thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, HĐXX phúc thẩm sẽ tiến hành xem xét lại bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm gồm có hai nội dung là xét xử lại vụ án về nội dung và kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án sơ thẩm, từ đó ra quyết định giải quyết vụ án. Thứ nhất, HĐXX phúc thẩm tiến hành xét xử lại vụ án về nội dung, tức là xem xét, đánh giá lại sự thật của vụ án trên cơ sở tất cả những chứng cứ đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập ở những giai đoạn trước và chứng cứ mới được bổ sung trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Thứ hai, HĐXX phúc thẩm kiểm tra tính hợp pháp (thể hiện ở việc bản án phù hợp với quy định của pháp luật nội dung cũng như pháp luật hình thức) và tính có căn cứ (thể hiện ở việc kết luận trong bản án phù hợp với những sự kiện thực tế của vụ án trên cơ sở chứng cứ được thu thập kiểm tra, đánh giá theo quy định của pháp luật).
Trong quá trình kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, HĐXX phúc thẩm có thể phát hiện những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật hình sự, những vi phạm trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự của Tòa án cấp sơ thẩm để sửa chữa những sai lầm, vi phạm, bảo đảm cho pháp luật được áp dụng một cách đúng đắn và thống nhất, nâng cao trách nhiệm và chất lượng xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, qua đó góp phần bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thứ năm, về phạm vi thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Trong quá trình thực hiện chức năng xét xử, HĐXX phúc thẩm được Nhà nước trao cho quyền năng đưa ra các quyết định để giải quyết vụ án, đồng thời cũng hạn chế quyền năng đó trong một giới hạn nhất định gọi là phạm vi xét xử phúc thẩm.
Trước hết, việc thực hiện thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm bị ảnh hưởng bởi giới hạn xét xử sơ thẩm vì bản chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị. Khi đề cập đến phạm vi thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm các nghiên cứu cơ bản đều khẳng định “Không thể phúc thẩm một số vấn đề mà vấn đề đó chưa được sơ thẩm” và “Phạm vi xét xử phúc thẩm không được vượt quá phạm vi của xét xử sơ thẩm, tức là tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xem xét những vấn đề mà toà án sơ thẩm quyết định”. Giới hạn xét xử sơ thẩm gồm giới hạn xét xử theo sự việc và giới hạn xét xử theo chủ thể. Vì vậy thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm theo cả sự việc và chủ thể được xác định: “Phạm vi xét xử theo trình tự phúc thẩm chỉ có thể là những bị can và những hành vi phạm pháp đã bị truy tố và đã xét xử trước tòa án sơ thẩm”; “Trên cơ sở giới hạn xét xử theo chủ thể, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử đối với những bị cáo mà VKS truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đưa ra xét xử. Trên cơ sở giới hạn xét xử theo sự việc, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử đối với những hành vi mà VKS truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đưa ra xét xử”. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam không quy định giới hạn xét xử sơ thẩm về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Tuy nhiên, HĐXX phúc thẩm không phải bao giờ cũng xem xét đầy đủ, toàn diện những vấn đề do Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mà phạm vi xét xử phúc thẩm còn được xác định dựa trên cơ sở phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị. “Kháng cáo, kháng nghị giới hạn việc thực hiện thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm, phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật”.
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, HĐXX phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với những phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị, HĐXX phúc thẩm chỉ xem xét khi xét thấy cần thiết (Điều 345 BLTTHS năm 2015). Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành không hướng dẫn cụ thể trường hợp nào được coi là “xét thấy cần thiết”. Có quan điểm cho rằng cần nhận thức quy định “xét thấy cần thiết” là: (i) Khi việc xem xét phần bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị vì nó cần thiết cho việc xét xử phần bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị; (ii) Khi có cơ sở để có thể xem xét, áp dụng pháp luật theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có lợi cho bị cáo; (iii) Khi có căn cứ cho rằng phần bản án sơ thẩm tuy không có kháng cáo, kháng nghị nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Theo tác giả, dựa trên quy định của BLTTHS hiện hành về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm, có thể hiểu “xét thấy cần thiết” là những trường hợp như: phần bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có liên quan đến phần bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; có căn cứ để sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị; có căn cứ huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án. Đây cũng là điểm khác biệt của xét xử phúc thẩm so với các thủ tục khác. Khi xét xử sơ thẩm, giới hạn xét xử của Tòa án phụ thuộc vào phạm vi truy tố của VKS, còn ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phải xem xét toàn bộ vụ án mà không hạn chế trong nội dung của kháng nghị.
Trước đây, tại mục 4 phần VI Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 08/12/1988 của TAND tối cao và VKSND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS hướng dẫn: “Trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị khủng cáo, kháng nghị có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”.
Tuy nhiên có thể thấy việc giải thích “trường hợp cần thiết” theo thông tư trên là chưa đầy đủ, không đúng với tinh thần của BLTTHS hiện hành.
Trên cơ sở phân tích các đặc điểm về chủ thể, đối tượng, thẩm quyền, nội dung, phạm vi thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm như sau: Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho HĐXX phúc thẩm được xem xét và quyết định trong phạm vi xét xử phúc thẩm đối với vụ án hình sự mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trên cơ sở xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án đó.