Hành vi đòi nợ thay người khác bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gì và hình phạt như thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Em có 1 câu hỏi muốn nhờ anh chị tư vấn giúp em: Trước đây bố em có cho 1 người vay 1 khoản tiền 10 triệu. Đã lâu họ không trả và có một vài người quen đã đi đòi nợ giúp nhưng người nợ tiền không trả mà lại báo công an nói bố em dùng xã hội đen để đòi tiền. Vậy trong trường hợp này thì bố em có phạm luật không? Nếu có thì mức hình phạt là như thế nào ạ? Em xin cám ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Điều 122 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi năm 2009 quy định về Tội vu khống:
“1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với nhiều người;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người thi hành công vụ;
e) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Tội vu khống xâm phạm đến khách thể là nhân phẩm, danh dự con người; đều được thực hiện do hình thức lỗi cố ý trực tiếp; chủ thể của tội này là bất kì người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định chung.
Như vậy, nếu những người này có hành vi bịa đặt là bố bạn sử dụng xã hội đen để đòi nợ thay, sử dụng vũ lực xâm phạm đến sức khoẻ của họ và tố cáo bố bạn trước cơ quan có thẩm quyền thì có thể cấu thành nên tội vu khống, người này có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Nếu những người này phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi năm 2009 thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Trường hợp bố bạn nhờ những người đòi nợ thay và những người này sử dụng vũ lực cố ý gây thương tích để đòi nợ đến người vay nợ và người vay nợ có bằng chứng chứng minh được hành vi này và thương tích gây ra từ hành vi sử dụng vũ lực của người đòi nợ thay thì bố bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, cụ thể được quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự 1999:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 1900.6568 để được giải đáp.