Hội đồng nhà nước được ra đời cùng với Hiến pháp năm 1980 với chức năng là cơ quan hoạt động cao nhất thường xuyên của Quốc hội, Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khái niệm hội đồng nhà nước được tồn tại hai khóa Quốc hội- đó là Quốc hội khóa VII (1981-1987) và Quốc hội khóa VIII (1987-1992).
Mục lục bài viết
1. Hội đồng nhà nước là gì?
Căn cứ Điều 98 Hiến pháp 1980 có đưa ra khái niệm về hội đồng nhà nước như sau:
– Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hội đồng Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn được Hiếp pháp, các luật và nghị quyết của Quốc hội giao cho, quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, giám sát việc thi hành Hiếp pháp, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và của Hội đồng Nhà nước, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước. Hội đồng Nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Hội đồng nhà nước tên tiếng Anh là: “State Council“.
2. Quy định về thành viên hội đồng nhà nước theo Hiến pháp 1980:
Hội đồng Nhà nước, được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, gồm có:
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
Các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước,
Các ủy viên Hội đồng Nhà nước.
Số Phó Chủ tịch và ủy viên Hội đồng Nhà nước do Quốc hội định.
Thành viên của Hội đồng Nhà nước không thể đồng thời là thành viên của Hội đồng Bộ trưởng.
Hội đồng Nhà nước gồm 1 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và các Ủy viên Hội đồng Nhà nước. Những vị trí này đều do Quốc hội Việt Nam bầu ra từ các đại biểu quốc hội.
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân toàn quốc và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.
Số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng và Ủy viên Hội đồng do Quốc hội quyết định.
Nhiệm kỳ của Hội đồng Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng nhà nước:
Như vậy, Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước. Vì vậy, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong
” Điều 100
Hội đồng Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Tuyên bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội.
2- Triệu tập các kỳ họp của Quốc hội.
3- Công bố luật.
4- Ra Pháp lệnh.
5- Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
6- Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
7- Giám sát công tác của Hội đồng bộ trưởng, của
8- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh.
9- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, nhằm phát huy chức năng cơ quan đại biểu nhân dân của Hội đồng nhân dân.
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; giải tán các Hội đồng nói trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân.
11- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các ủy ban Nhà nước.
12- Trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm ủy ban Nhà nước.
13- Cử và bãi miễn các Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân tối cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
14- Bổ nhiệm, bãi miễn và triệu hồi các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và ở các tổ chức quốc tế.
15- Tiếp nhận các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài.
16- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định.
17- Quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao và những hàm và cấp khác.
18- Quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước.
19- Quyết định đặc xá.
20- Trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược.
21- Quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ, việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương.
Những quyết định của Hội đồng Nhà nước nói ở các điểm 11, 12 và 20 phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội.
Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”
Như vậy, Hội đồng Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: tuyên bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; triệu tập các kỳ họp của Quốc hội; công bố luật; ra Pháp lệnh; giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh; quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân; giám sát công tác của Hội đồng bộ trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Nghị quyết, Nghị định.
Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh; giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, nhằm phát huy chức năng cơ quan đại biểu nhân dân của Hội đồng nhân dân; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; giải tán các Hội đồng nói trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân; trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các ủy ban Nhà nước; trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm ủy ban Nhà nước; cử và bãi miễn các Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân tối cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm, bãi miễn và triệu hồi các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và ở các tổ chức quốc tế; tiếp nhận các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài; phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định.
Quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao và những hàm và cấp khác; quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước; quyết định đặc xá; trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược; quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ, việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương.
Những quyết định của Hội đồng Nhà nước như: trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các ủy ban Nhà nước; trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm ủy ban Nhà nước; trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược; phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội.
Tại khoản 21 Điều 100 Hiến pháp năm 1980 còn ghi nhận: “… Quốc hội cỏ thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khỉ xét thấy cần thiết”. Thể chế Chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề quan trọng của đất nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như vậy thường vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó là do mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc đôi khi chậm chạp, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chưa thật rõ ràng. Giữa hai kì họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng trong kì họp Quốc hội thì thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước lại hầu như không được thể hiện.
Mặt khác, việc Hội đồng Nhà nước được quyền quyết định một số quyền hạn thuộc thẩm quyền Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung quyền lực, nhất là quyền lập pháp vào Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp thì chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước rất lớn nhung cơ cấu của thành viên Hội đồng Nhà nước hầu hết gồm những người kiêm nhiệm.
Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.
Nhiệm kỳ của Hội đồng Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Hội đồng Nhà nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Hội đồng Nhà nước mới.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Hiến pháp 1980.