Khái quát về giám định tư pháp? Hội đồng giám định tư pháp theo Luật giám định tư pháp?
Thực hiện hoạt động giám định tư pháp là một trong số những biện pháp hữu hiệu trong việc giải quyết các vụ án, hướng hoạt động tố tụng theo cơ chế minh bạch, đúng người đúng tội, tránh oan sai, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể có liên quan. Ngày nay, hoạt động giám định tư pháp góp phần bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thông qua việc tạo lập và cung cấp những chứng cứ chính xác, bảo đảm an toàn cho công dân trong các quan hệ pháp luật mà họ tham gia. Trong những năm qua, hoạt động giám định tư pháp có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả và chất lượng của hoạt động tố tụng. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về hội đồng giám định tư pháp theo Luật giám định tư pháp.
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Khái quát về giám định tư pháp:
Khoản 1 Điều 2
Các hoạt động giám định tư pháp sẽ là hoạt động chuyên môn do các chuyên gia thực hiện. Việc thực hiện giám định tư pháp là nhằm mục đích để phục vụ cho việc giải quyết các vụ án. Hiện nay, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm thu thập chứng cứ và một trong những biện pháp đó là trưng cầu giám định tư pháp.
Trong một số trường hợp bắt buộc do pháp luật quy định hoặc khi xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có thể trưng cầu giám định tư pháp. Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ có thể trưng cầu bất cứ chuyên gia nào có kiến thức về lĩnh vực chuyên môn liên quan đến vụ án để thực hiện hoạt động giám định theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Trong quá trình thực hiện giám định, các chủ thể là người giám định tư pháp phải sử dụng những kiến thức nghiệp vụ của mình cũng như các phương pháp phù hợp và phải thực hiện đúng các quy chuẩn chuyên môn của mình đối với từng lĩnh vực cụ thể để thực hiện việc giám định. Không những thế còn phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình thực hiện. Xuất phát từ nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân nên khi các chủ thể thực hiện giám định, người giám định sẽ không phải chịu chi phối từ phía cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Chính bởi vì vậy mà hoạt động giám định tư pháp không mang tính quyền lực nhà nước.
Mục đích hoạt động giám định tư pháp đó là giám định tư pháp được thực hiện nhằm mục đích cung cấp các chứng cứ để nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, hiện nay, nhu cầu cần giám định để nhằm phục vụ công tác quản lý Nhà nước, thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ, giao dịch dân sự của tổ chức, cá nhân ngày một nhiều.
2. Hội đồng giám định tư pháp theo Luật giám định tư pháp:
Theo Điều 30 Luật Giám định tư pháp năm 2012 quy định về hội đồng giám định có nội dung như sau:
– Pháp luật quy định trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện.
Như vậy, ta nhận thấy, việc giám định lại có thể tiến hành lần thứ hai khi các kết quả giám định có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định. Việc giám định lần hai theo quy định sẽ do các chủ thể là người trưng cầu giám định quyết định và phải do Hội đồng giám định thực hiện.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, kết luận giám định là một trong số những nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng được sử dụng để làm căn cứ để xác định có hay không có sự việc phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, những tình tiết liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những tình tiết khác có ý nghĩa trong quá trình giải quyết đối với vụ án.
Bởi vì vai trò quan trọng như vậy nên kết luận giám định cần phải chính xác. Nếu có những khác biệt giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì pháp luật quy định việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định.
– Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai. Hội đồng giám định theo quy định pháp luật sẽ gồm có ít nhất 03 thành viên là những người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể quy định tại khoản 3 Điều 28 của Luật Giám định tư pháp. Cụ thể:
+ Trong trường hợp giám định tập thể về một lĩnh vực chuyên môn thì những chủ thể là người giám định cùng thực hiện việc giám định, ký vào bản kết luận giám định chung và cùng chịu trách nhiệm về kết luận giám định đó. Trong trường hợp nếu có ý kiến khác thì giám định viên ghi ý kiến của mình vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm về ý kiến đó.
+ Đối với trường hợp giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người giám định thực hiện phần việc giám định thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình và chịu trách nhiệm cá nhân về phần kết luận giám định đó theo đúng quy định của pháp luật.
– Trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án
Việc giám định lại là một hoạt động giám định được tiến hành theo quyết định trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự về vấn đề đã được giám định khi có kết quả giám định trước hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định.
“1. Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện.
2. Cơ quan trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng quyết định việc trưng cầu giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người đề nghị giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Luật giám định tư pháp.”
Như vậy, ta nhận thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã đưa ra quy định về giám định lại. Căn cứ và thủ tục giám định lại cũng được quy định chặt chẽ hơn.
Việc giám định lại sẽ được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Kết luận giám định có ý nghĩa đối với việc thu thập, xác lập chứng cớ, củng cố chứng cứ, kiểm tra chứng cứ. Kết luận giám định sai có thể dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong vụ án. Bởi vì tính chất quan trọng như vậy, điều luật quy định việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện.
Hội đồng giám định là một tổ chức bao gồm các giám định viên được cơ quan có thẩm quyền thành lập để tiến hành việc giám định theo trưng cầu giám định.
Hội đồng giám định tư pháp bao gồm các giám định viên tư pháp là những chủ thể là người có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, có thâm niên công tác về nghiệp vụ, chuyên môn đó và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm. Hội đồng giám định tư pháp được lập ra với mục đích chính là để tiến hành giám định theo quyết định trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án trong những trường hợp cần thiết do pháp luật quy định.
Ta nhận thấy, trên thực tế và theo quy định của pháp luật hiện hành thì Hội đồng giám định sẽ được thành lập trong trường hợp cần thiết khi các vấn đề cần giám định đòi hỏi phải có sự tham gia của các giám định viên thuộc các chuyên ngành khác nhau hoặc trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định.