Hoạt động kinh doanh chứng khoán được hiểu là hoạt động của các tổ chức, cá nhân, các công ty chứng khoán, nhà môi giới chứng khoán và các chế định tài chính trung gian khác trên thị trường chứng khoán để thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nhằm mục đích sinh lời.
Mục lục bài viết
1. Hoạt động kinh doanh chứng khoán là gì?
Hoạt động kinh doanh nói chung được hiểu là thực hiện quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ trên thị trường với mục tiêu lợi nhuận.
Trong thị trường chứng khoán, có thể hiểu hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động đầu tư, mua, bán chứng khoán hoặc thực hiện các dịch vụ trên thị trường chứng khoán với mục tiêu sinh lời. Hoạt động kinh doanh chứng khoán được hiểu là hoạt động của các tổ chức, cá nhân, các công ty chứng khoán, nhà môi giới chứng khoán và các chế định tài chính trung gian khác trên thị trường chứng khoán để thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nhằm mục đích sinh lời.
Theo quy định của Khoản 28 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019, hoạt động kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và cung cấp dịch vụ về chứng khoán. Như vậy, có thể thấy sự đa dạng của các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán kéo theo sự đa dạng của các hoạt động kinh doanh chứng khoán .
2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán:
Hoạt động kinh doanh chứng khoán mang các đặc điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán là chứng khoán. Đây là loại hàng hóa đặc biệt có tính thanh khoản, tính rủi ro và tính sinh lời. Chứng khoán được thể hiện dưới nhiều hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ, dữ liệu điện gồm có một số loại như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; chứng quyền, chứng quyền có đảm bảo,….
Thứ hai, các chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán phải được cấp giấy phép. Do hoạt động kinh doanh chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện với đa dạng các nghiệp vụ như môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán,…, do đó các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải được cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán và phải đáp ứng các tiêu chuẩn riêng về trụ sở, vốn, cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn của nhân sự,…theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Đối với hoạt động môi giới chứng khoán pháp luật yêu cầu các điều kiện như: Về cơ sở vật chất phải có trụ sở rõ ràng, có sàn giao dịch phục vụ khách hàng; có hệ thống máy tính, phần mềm phục vụ hoạt động giao dịch; đáp ứng tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy; đảm bảo an ninh, trật tự,…., Về vốn pháp định của tổ chức hoạt động môi giới chứng khoán ít nhất 25 tỷ đồng; Về nhân sự yêu cầu có Giám đốc (Tổng Giám đốc) đáp ứng điều kiện như đối với loại hình kinh doanh chứng khoán khác và tối thiểu 03 người hành nghề chứng khoán cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch, công khai, bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư. Đây là nguyên tắc quan trọng để giảm thiểu tối đa rủi ro của hoạt động kinh doanh chứng khoán . Tính minh bạch, công khai được thể hiện ở việc các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị trường được sở giao dịch chứng khoán công bố. Các tổ chức niêm yết chứng khoán công bố công khai các thông tin định kỳ hàng năm của các công ty, các sự kiện bất thường trong công ty, nắm giữ cổ phiếu của Giám đốc, người quản lý, cổ đông đa số. Các thông tin càng công khai, minh bạch thì càng thu hút được các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc công khai, minh bạch được nêu cụ thể tại Khoản 2 Điều 5 Luật Chứng khoán nhằm đảm bảo giá cả chứng khoán được hình thành, xác định một cách thống nhất, chính xác, công bằng cho các bên tham gia. Các thông tin được cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời giúp các nhà đầu tư xác định giá trị chứng khoán. Do đó, pháp luật yêu cầu các chủ thể kinh doanh chứng khoán phải đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các nhà đầu tư và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong việc sở hữu, mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán.
3. Các nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán:
3.1. Hoạt động môi giới chứng khoán:
Hoạt động môi giới chứng khoán được coi là hoạt động đặc trưng, cơ bản của thị trường chứng khoán . Hoạt động môi giới chứng khoán đã được nhiều người chấp nhận và dần trở thành hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao. Do đó, hoạt động môi giới chứng khoán yêu cầu người môi giới có kiến thức chuyên môn, có kỹ năng, có trình độ nghiệp vụ, kiến thức nghề nghiệp và phải có môi trường hỗ trợ đa dạng để đem lại kết quả tốt nhất.
Hoạt động môi giới chứng khoán được hiểu là việc làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng. Khi đó, một công ty kinh doanh chức khoán đại diện cho khách hàng thực hiện giao dịch chứng khoán và chính khách hàng sẽ chịu trách nhiệm với các giao dịch đó. Người môi giới được hưởng hoa hồng khi thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng và không chịu rủi ro từ các hoạt động đó. Hoạt động môi giới có vai trò quan trọng là cầu nối giữa khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư – bộ phận có chức năng cung cấp các báo cáo nghiên cứu và khuyến nghị đầu tư cho khách hàng.
Đồng thời cũng là cầu nối giữa người bán và người mua, đem cho khách hàng các loại sản phẩm, dịch vụ trên thị trường chứng khoán . Hoạt động môi giới còn có chức năng đáp ứng các nhu cầu tâm lý của khách hàng, trở thành người chi sẻ căng thẳng, động viên kịp thời cho khách hàng, khắc phục những trạng thái cảm xúc thái quá của khách hàng và đề xuất thời điểm chốt lời, cắt lỗ hợp lý.
Hoạt động môi giới chứng khoán có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán là công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán đóng vai trò cầu nối trung gian đại diện cho khách hàng thực hiện mua, bán chứng khoán. Theo quy định của pháp luật, chỉ những công ty chứng khoán được cấp giấy phép môi giới chứng khoán mới được thực hiện nghiệp vụ này.
Thứ hai, khách thể của hoạt động môi giới chứng khoán là chúng khoán. Môi giới chứng khoán là một trong các nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán . Đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán là chứng khoán. Đây là một loại hàng hóa đặc biệt, có nhiều đặc tính mà một loại hàng hóa thông thường ít có như tính rủi ro, tính sinh lời, tính khoản. Giá trị của chứng khoán được xác định bằng nhiều yếu tố và có thể biến động liên tục phụ thuộc vào thị trường.
Thứ ba, hoạt động môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán , thể hiện vai trò trung gian trên thị trường chứng khoán . Công ty môi giới chứng khoán có vai trò trung gian, thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán và được hưởng hoa hồng cho mỗi giao dịch. Công ty môi giới chứng khoán thực hiện các lệnh theo yêu cầu của khách hàng, không chịu các rủi ro, trách nhiệm về hậu quả, thiệt hại khi mua, bán chứng khoán. Khách hàng sẽ chịu trách nhiệm đối với các hậu quả, rủi ro khi tham gia giao dịch chứng khoán. Hoạt động môi giới chứng khoán chỉ chịu trách nhiệm trong trường hợp thực hiện lệnh sao lệch gây thiệt hại cho khách hàng.
Thứ tư, công ty môi giới chứng khoán không có quyền quyết định giá cả khi môi giới. Môi giới chứng khoán có chức năng cung cấp cho khách hàng các thông tin về thị trường để khách hàng quyết định mua, bán chứng khoán.
Giá mua vào, bán ra chứng khoán do khách hàng quyết định và công ty môi giới thực hiện theo lệnh của khách hàng. Do đó, hoạt động môi giới chứng khoán không có quyền quyết định giá cả thực hiện giao dịch chứng khoán.
Thứ năm, hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian phức tạp có nhiều dịch vụ đi kèm. Hoạt động môi giới chứng khoán không chỉ đơn thuần là thay mặt khách hàng thực hiện các giao dịch mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán trên thị trường chứng khoán mà còn cung cấp rất nhiều dịch vụ khác nhau. Thông thường, các công ty môi giới chứng khoán đa dạng hóa các dịch vụ đi kèm như hỗ trợ nhà đầu tư ứng trước tiền bán chứng khoán, cầm cố chứng khoán, repo cổ phiếu (cho vay có kỳ hạn với cổ phiếu khách hàng đang nắm giữ),…
Hoạt động môi giới chứng khoán khác với hoạt động môi giới thương mại thông thường. Nếu như hoạt động môi giới chứng khoán đơn giản nhất là việc thay mặt khách hàng thực hiện hoạt động mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán theo yêu cầu thì hoạt động môi giới thương mại thông thường chỉ có chức năng liên hệ, giới thiệu giữa các bên mua, bán với nhau, việc mua bán thường do các bên tự thực hiện.
Thứ sáu, hạch toán các giao dịch thực hiện trên tài khoản thuộc sở hữu của khách hàng. Khi tham gia thị trường chứng khoán , nhà đầu tư phải mở tài khoản giao dịch để thực hiện việc mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán. Thông thường, các công ty chứng khoán mở tài khoản giao dịch cho khách hàng thông qua Giấy đề nghị mở tài khoản và Hợp đồng đã ký kết với khách hàng. Để đảm bảo an toàn trong thanh toán, khách hàng được yêu cầu ký quỹ giao dịch tại công ty chứng khoán theo tỷ lệ quy định trước. Mọi hoạt động mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán đều được hạch toán trên tài khoản này.
3.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán:
Khoản 20 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019 quy định: “Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán cho chính mình”. Công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh chứng khoán với mục đích chính là lợi nhuận và trở thành nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Với vai trò là nhà đầu tư, chủ thể thực hiện hoạt động tự doanh chứng khoán tự chịu trách nhiệm với mọi rủi ro từ quyết định mua, bán chứng khoán.
Thông thường, các công ty tự doanh chứng khoán thường đi kèm với hoạt động môi giới chứng khoán. Do đó, khi thực hiện đồng thời cả hai hoạt động này có thể dẫn đến xung đột lợi ích của khách hàng và của công ty. Khi thị trường chứng khoán có nguồn cung lớn hơn cầu khiến giá chứng khoán hạ, công ty tự doanh chứng khoán sẽ mua chứng khoán vào. Khi nhu cầu chứng khoán lớn hơn cũng khiến giá chứng khoán tăng thì các công ty tự doanh chứng khoán bán chứng khoán ra.
Vì vậy, hoạt động đầu tư của công ty kinh doanh chứng khoán được coi là hoạt động tạo lập thị trường, góp phần định hướng, điều tiết hoạt động thị trường, góp phần làm bình ổn, đảm bảo tính liên tục, duy trì được giao dịch chứng khoán và tạo sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán . Đặc trưng của hoạt động đầu tư chứng khoán mang tính rủi ro. Vì thế, hoạt động tự doanh chứng khoán mang tính rủi ro cho các công ty kinh doanh chứng khoán . Các nhà đầu tư có thể không thu được số vốn đầu tư ban đầu. Các công ty tự doanh chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh chứng khoán đòi hỏi phải có kiến thức nhất định về chứng khoán, thị trường nhằm hạn chế các rủi ro có thể xảy ra.
Hoạt động tự doanh chứng khoán có thể thực hiện giao dịch trực tiếp hoặc gián tiếp:
Tự doanh chứng khoán thực hiện theo giao dịch trực tiếp là giao dịch giữa khách hàng và công ty chứng khoán theo thỏa thuận trực tiếp tại quầy giao dịch. Hoạt động giao dịch được thực hiện trong thời gian linh hoạt có thể là trong hoặc ngoài giờ hành chính. Đối tượng của giao dịch đa dạng nhưng chủ yếu là chứng khoán chưa niêm yết hoặc mới phát hành. Do giao dịch thực hiện trực tiếp các thủ tục thanh toán, chuyển nhượng chứng khoán nên không chịu bất kỳ một loại phí nào, trừ chi phí thanh toán, chi phí chuyển khoản (nếu có). Các hoạt động tự doanh chứng khoán trực tiếp không chịu sự giám sát của Sở giao dịch nhưng chịu sự thanh tra của Nhà nước về chứng khoán. Doanh số giao dịch trực tiếp thường lớn hơn nhiều lần với doanh số giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán.
Tự doanh chứng khoán thực hiện theo giao dịch gián tiếp là giao dịch không thực hiện thông qua các giả lập giá, các chuyên gia chứng khoán, hoặc đặt lệnh mua, bán giống lệnh mua, bán của các nhà đầu tư khác. Giao dịch tự doanh chứng khoán gián tiếp không được thực hiện giao dịch trực tiếp để đảm bảo an toàn khi có biến động lớn của giá chứng khoán và đôi khi có thể vì mục đích can thiệp giá vào thị trường. Giao dịch tự doanh chứng khoán gián tiếp được thực hiện qua sở giao dịch nên phải chịu các chi phí như chi phí môi giới lập giá, chi phí thanh toán bù trừ, chi phí lưu ký chứng khoán.
Hoạt động tự doanh chứng khoán đem lại nhiều mục đích khác nhau như điều tiết, tạo lập thị trường, hưởng lợi nhuận, dự trữ chứng khoán đảm bảo khả năng cung ứng ra thị trường,…
Hoạt động tự doanh chứng khoán có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động tự doanh chứng khoán tách biệt quản lý với hoạt động môi giới chứng khoán. Đặc điểm này đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, công khai trong hoạt động. Tính tách bạch được thể hiện qua nhiều yếu tố khác nhau. Về con người, đội ngũ nhân viên thực hiện nghiệp vụ tự doanh phải tách biệt với đội ngũ nhân viên môi giới. Để tránh xung đột về lợi ích xảy ra giữa khách hàng và công ty tự doanh chứng khoán, pháp luật có quy định hoạt động tự doanh chứng khoán không phải nghiệp vụ trong công ty chứng khoán. Ở một số quốc gia quy định hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động môi giới chứng khoán phải được thực hiện ở hai khu vực tách biệt rõ ràng. Các nhân viên của hai hoạt động tự doanh và môi giới chứng khoán không được sang khu vực của nhau, không được trao đổi với nhau. Tính tách biệt còn được thể hiện ở việc quản lý tài sản của khách hàng tách bạch với tài sản của công ty chứng khoán. Qua đó giúp hạn chế xung đột giữa các bên và đảm bảo quyền, lợi ích của khách hàng.
Thứ hai, hoạt động tự doanh chứng khoản phải đảm bảo tru tiên khách hàng. Do công ty chứng khoán có nhiều lợi thế trong tiếp cận thông tin, phân tích, dự đoán diễn biến thị trường, có thể dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng với khách hàng trên thị trường chứng khoán , ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nhà đầu tư. Vì vậy, công ty kinh doanh chứng khoán có hoạt động tự doanh chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh nếu thỏa mãn các điều kiện nhất định. Việc ưu tiên quyền lợi của khách hàng trong hoạt động tự doanh chứng khoán là cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích nhà đầu tư.
Thứ ba, hoạt động tự doanh chứng khoán giúp bình ổn, điều tiết thị trường. Trong thị trường chứng khoán mới nổi có nhiều nhà đầu tư cá nhân. Vì vậy thị trường này không có tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư, dễ dẫn đến những biến động trên thị trường. Do đó, các nhà đầu tư chuyên nghiệp là các công ty tự doanh chứng khoán có vai trò quan trọng trong điều tiết thị trường, là nguồn tín hiệu hướng dẫn cho toàn bộ thị trường. Với nguồn vốn lớn của mình, thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán , các công ty tự doanh chứng khoán góp phần không nhỏ trong điều tiết thị trường, bình ổn giá các loại chứng khoán. Mặc dù chức năng bình ổn giá không phải là quy định bắt buộc trong hệ thống pháp luật, nhưng đây là nguyên tắc mà các hiệp hội chứng khoán đặt ra và các công ty kinh doanh chứng khoán có hoạt động tự doanh chứng khoán.
3.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán:
Theo quy định tại Khoản 31, Điều 4 Luật Chứng khoán 2019: “Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc cam kết với tổ chức phát hành nhận mua một phần hoặc toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết hoặc cố gắng tối đa để phân phối số chứng khoán cần phát hành của tổ chức phát hành”. Đây là hoạt động phổ biến của các công ty chứng khoán nhằm hỗ trợ các tổ chức phát hành chứng khoán phân phối chứng khoán ra công chúng. Các công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán thỏa thuận mua toàn bộ hoặc một phần chứng khoán để bán lại hoặc thay mặt tổ chức phát hành chứng khoán bán một phần hoặc toàn bộ số chứng khoán đã phát hành.
Hoạt động này rất được ưa chuộng và phù hợp với các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, chưa xây dựng được thương hiệu trên thị trường và giúp các công ty phát hành chứng khoán tiếp cận được nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường. Các công ty phát hành chứng khoán sẽ bị mất một khoản phí bảo lãnh trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phụ thuộc vào tính chất, tổng giá trị đợt phát hành và lãi suất trái phiếu phát hành.
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán đem lại nhiều lợi ích cho tổ chức phát hành chứng khoán như nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và hiệu quả sử dụng nguồn vốn thu được từ đợt phát hành thông qua tư vấn quản lý tài chính từ công ty bảo lãnh; đảm bảo mức độ thành công cao hơn của đợt phát hành do các tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán có đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, nắm bắt được nhu cầu thị trường, có sẵn mạng lưới các nhà phân phối với các quan hệ với các đại lý, nhà đầu tư; giảm thiểu rủi ro khi phát hành chứng khoán với tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Tuy nhiên, hình thức này lại có một số nhược điểm như tổ chức phát hành chứng khoán phải trả một khoản phí khá lớn để được bảo lãnh; không kiểm soát được các cổ đông mới do việc phát hành thông qua tổ chức bảo lãnh và mức độ thành công của đợt phát hành chứng khoán phụ thuộc vào chuyên môn, trình độ của tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán có các phương thức sau:
Bảo lãnh chắc chắn là hình thức tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán mới phát hành theo giá thỏa thuận cho dù có phân phối hết hay không. Thông thường, mức giá thỏa thuận này là mức chiết khấu so với mức giá chào bán trên thị trường. Giá thị trường là giá bán của tổ chức bảo lãnh và được ghi trong bản cáo bạch. Lợi nhuận của tổ chức bảo lãnh là khoản chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường và giá chiết khấu theo thỏa thuận, hoa hồng bảo lãnh. Ở hình thức này, tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán sẽ chấp nhận rủi ro khi không bán hết chứng khoán đã mua họ sẽ trở thành nhà đầu tư của tổ chức phát hành chứng khoán, hoặc khoản hoa hồng bảo lãnh mà họ nhận được không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra để thực hiện hợp đồng như chi phí tư vấn, giới thiệu, quảng cáo, lãi vay,…
Bảo lãnh cố gắng cao nhất là phương thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành chứng khoán. Theo đó, tổ chức bảo lãnh cam kết cố gắng cao nhất để bán chứng khoán ra công chúng với mức giá đã định sẵn. Số chứng khoán không bán hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành chứng khoán. Tổ chức bảo lãnh sẽ nhận được hoa hồng trên số chứng khoán đã bán hoặc số vốn đã huy động. Hình thức này phụ thuộc nhiều vào khả năng, uy tín của tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán. Rủi ro xảy ra sẽ được san sẻ cho cả tổ chức phát hành chứng khoán và tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán vì số hoa hồng nhận được phụ thuộc vào số lượng chứng khoán đã bán và số vốn huy động được.
Bảo lãnh tất cả hoặc không là phương thức bảo lãnh có thỏa thuận giữa tổ chức phát hành chứng khoán và tổ chức bảo lãnh chứng khoán nếu không phân phối hết số chứng khoán thì hủy bỏ đợt phát hành. Thông thường, chứng khoán khi nhà đầu tư mua trong thời gian chào bán sẽ được giữ bởi bên thứ ba để chờ kết quả phát hành. Trường hợp phát hành thành công, nhà đầu tư sẽ sở hữu chứng khoán mình đã mua, ngược lại, nếu đợt phát hành không thành công, toàn bộ số chứng khoán đã chào bán sẽ bị thu lại và nhà đầu tư sẽ nhận lại toàn bộ số tiền đặt cọc. Hình thức này áp dụng với tổ chức phát hành cần một số vốn tối thiểu nhất định để phục vụ sản xuất, kinh doanh. Nếu tổ chức bảo lãnh bán được số chứng khoán, huy động được đủ số vốn cần thiết trong hợp đồng thì sẽ nhận được hoa hồng bảo lãnh và công ty sẽ thực hiện đợt phát hành. Trường hợp không huy động được số vốn mong muốn, công ty sẽ hủy đợt phát hành và tổ chức bảo lãnh sẽ không nhận được hoa hồng bảo lãnh.
Bảo lãnh theo phương thức dự phòng là phương thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán cam kết sẽ mua hết số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết và bán ra công chúng. Phương thức này thường áp dụng cho tổ chức phát hành là công ty đại chúng phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn. Các cổ đông cũ sẽ được ưu tiên mua cổ phiếu được phát hành thêm. Trường hợp các cổ đông không mua hoặc không mua hết số cổ phiếu được phát hành thêm thì tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán sẽ mua và bán lại ra công chúng. Tổ chức bảo lãnh chỉ nhận được hoa hồng khi tổ chức phát hành không bán hết chứng khoán. Rủi ro trường hợp này là thị trường e ngại khi cổ đông cũ không mua hết cổ phiếu mới vì đó là dấu hiệu để các nhà đầu tư khác cho rằng đầu tư vào công ty đó kém hấp dẫn, phần cổ phiếu còn lại khó bán trên thị trường trong khi hoa hồng không cao.
Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa là phương thức kết hợp giữa phương thức bảo lãnh cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo đó, tổ chức bảo lãnh phải bán được chứng khoán ở một tỷ lệ nhất định theo yêu cầu của tổ chức phát hành. Nếu vượt qua mức này, tổ chức bảo lãnh được phép bán chứng khoán đến mức tối đa. Nếu không vượt qua mức này thì đợt phát hành bị hủy bỏ và số tiền đặt cọc mua chứng khoán sẽ trả lại cho nhà đầu tư.
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tiềm ẩn nhiều rủi ro nên pháp luật các nước thường yêu cầu mức vốn pháp định cao đối với tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán. Bên cạnh đó, tổng giá trị bảo lãnh phát hành cũng bị khống chế ở một tỷ lệ nhất định so với tổng vốn chủ sở hữu của nó. Bảo lãnh phát hành chứng khoán là điều kiện bắt buộc đối với doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng và công nghệ cao
3.4. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán:
Cũng như các hoạt động tư vấn khác, hoạt động tư vấn chứng khoán là việc đưa ra lời khuyên, phân tích tình huống, thực hiện một số công việc khác có tính chất dịch vụ cho khách hàng. Việc tư vấn đầu tư chứng khoán là việc cần thiết giúp các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư mới, ít kinh nghiệm thẩm định được thông tin và có quyết định đúng đắn trong đầu tư chứng khoán. Hoạt động tư vấn chứng khoán gồm nhiều chuyên gia có trình độ học vấn, chuyên môn cao, có uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư giảm thời gian, chi phí giao dịch và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Theo Khoản 32 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019: “Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc cung cấp cho khách hàng kết quả phân tích, báo cáo phân tích và đưa ra khuyến nghị liên quan đến việc mua, bán, nắm giữ chứng khoán”. Như vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động đưa ra các thông tin về thị trường, các thông tin về ngành nghề kinh tế, thông tin hoạt động doanh nghiệp,… để gợi ý các nhà đầu tư mua, bán chứng khoán. Đặc điểm của thị trường chứng khoán luôn biến đổi không ngừng nên hoạt động tư vấn gặp nhiều khó khăn, đồng thời có thể xảy ra mâu thuẫn về lợi ích, hoạt động tư vấn có thể gây ra hiểu lầm về giá và xu hướng giá của chứng khoán.
Do đó, người thực hiện hoạt động tư vấn phải có chứng chỉ hành nghề do Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp. Nội dung tư vấn đầu tư chứng khoán đa dạng như tư vấn chiến lược, kỹ thuật giao dịch; tư vấn định giá chứng khoán, dự báo biến động các loại chứng khoán; tư vấn phân tích hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán;
3.5. Hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán:
Trên thị trường, ngoài hình thức đầu tư riêng lẻ, tự thực hiện giao dịch còn có hình thứ đầu tư tập thể. Các nhà đầu tư đơn lẻ tập hợp nhau lại, góp vốn để thành lập quỹ đầu tư để đầu tư trên thị trường chứng khoán . Quỹ đầu tư chứng khoán theo Khoản 37 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019: “Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích thu lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc vào các tài sản khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hằng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ”. Quỹ đầu tư được quản lý bởi công ty quản lý quỹ. Công ty quản lý quỹ được thực hiện nhiều nhiều nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nhau nhưng cơ bản nhất là hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
Hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là hoạt động của các công ty đầu tư chuyên nghiệp do các nhà đầu tư cùng góp vốn. Các nhà đầu tư ủy thác cho công ty quản lý đầu tư để đầu tư số tiền đó vào chứng khoán và các tài sản khác để làm tăng giá trị tài sản thông qua quỹ đầu tư được lập ra.
Theo Khoản 35 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019 quy định: “Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là hoạt động quản lý theo ủy thác của từng nhà đầu tư trong việc mua, bán, nắm giữ chứng khoán và các tài sản khác của nhà đầu tư”.
Hình thức đầu tư vào quỹ đầu tư chứng khoán được coi là an toàn, hiệu quả. Bởi vì:
Hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán đa dạng hóa danh mục đầu tư, qua đó giảm thiểu rủi ro. Các nhà đầu tư cá nhân với số vốn ít, không có nhiều kinh nghiệm sẽ khó đa dạng hóa được danh mục đầu tư để đem lại hiệu quả cao. Trong khi hoạt động của quỹ đầu tư có lượng vốn lớn, có thể đem đầu vào các dự án lớn, có khả năng sinh lời cao hoặc đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau. Chiến lược đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm giảm rủi ro là việc đầu tư nhiều loại chứng khoán không có tương quan cùng chiều với nhau. Khi đó biến động giảm lợi nhuận của chứng khoán này sẽ được bù đắp bằng biến động tăng lợi nhuận của chứng khoán khác. Danh mục đầu tư đa dạng duy trì sự tăng trưởng ngay cả khi một số mã cổ phiếu trong danh mục giảm giá, trong khi các mã cổ phiếu khác vẫn tăng giá cao hơn.
Hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Các quỹ đầu tư được quản lý, vận hành bởi chuyên gia chuyên nghiệp, giàu kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm về thị trường chứng khoán . Các chuyên gia sẽ thay mặt nhà đầu tư quyết định mua, bán loại chứng nào để đem lại hiệu quả cao nhất. Việc lựa chọn các chuyên gia căn cứ vào tổng lợi nhuận họ tạo ra khi tham gia hoạt động đầu tư. Những chuyên gia không được ra được lợi nhuận sẽ bị công ty quản lý quỹ thay thế.
Hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tiết kiệm chi phí đầu tư. Các quỹ đầu tư có danh mục đầu tư được quản lý bởi các chuyên gia giàu kinh nghiệm nên có thể dễ dàng tiếp nhận các thông tin về thị trường, dự án đầu tư với chi phí thấp. Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý bởi chuyên gia nên không mất chi phí thuê dịch vụ tư vấn bên ngoài và mức hoa đồng cho các giao dịch cũng thấp hơn so với các nhà đầu tư đơn lẻ.
Vai trò của hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán:
Hoạt động quản lý quỹ góp phần huy động vốn cho việc phát triển kinh tế và sự phát triển của thị trường sơ cấp.
Hoạt động quản lý quỹ góp phần ổn định thị trường thứ cấp. Với vai trò là các nhà đầu tư chuyên nghiệp, hoạt động quản lý quỹ góp phần tạo bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp. Qua đó góp phần phát triển thị trường này qua các hoạt động đầu tư và phương pháp phân tích khoa học.
Hoạt động quản lý quỹ góp phần làm đa dạng thị trường chứng khoán . Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các tài sản tài chính ngày càng thể hiện rõ chức năng sinh lời. Các nhà đầu tư có xu hướng đa dạng hóa hóa nhiều công cụ tài chính để đầu tư. Do đó, quỹ đầu tư được thành lập với nhiều sản phẩm tài chính khác nhau như độ an toàn, thời gian đáo hạn, khả năng sinh lời,… để nhà đầu tư riêng lẻ có thể chọn lựa.
Hoạt động quản lý quỹ góp phần xã hội hóa hoạt động đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư tập hợp nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ, có vốn ít, chưa có nhiều hiểu biết về thị trường chứng khoán . Thông qua tham gia quỹ đầu tư, các nhà đầu tư này có thể gián tiếp tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán mà vẫn đem lại lợi nhuận, mức độ an toàn cao.