Theo nguyên tắc chung của pháp luật về dân sự, thỏa thuận hòa giải có hiệu lực đối với các bên và các bên phải tôn trọng thỏa thuận đó. Tuy nhiên pháp luật hiện nay chưa có cơ chế đảm bảo thực thi thỏa thuận hòa giải. Hòa giải thành công nhưng không thực hiện thì có phải bồi thường hay không?
Mục lục bài viết
1. Hòa giải thành nhưng không thực hiện thì có phải bồi thường không?
Trên thực tế, một số tranh chấp kinh doanh, thương mại, dân sự … cũng đã được giải quyết bằng phương thức hòa giải. Theo đó, khi phiên hòa giải kết thúc, các đương sự đã tìm ra tiếng nói chung, đã thỏa thuận được với nhau một giải pháp để giải quyết vụ án một cách phù hợp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cả đôi bên và được ghi lại trong biên bản hòa giải thành. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định phải dành cho các bên đương sự một thời gian cần thiết nữa để họ suy nghĩ, cân nhắc lại tất cả những nội dung mà họ đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp, theo quy định tại khoản 1 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, hết thời hạn 07 ngày, thời hạn này được tính kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được chủ thể có thẩm quyền đó là chánh án tòa án phân công, sẽ tiến hành thủ tục ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Hết thời hạn đó mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án mới ra quyết định công nhận. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, thời gian này được tính kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Thẩm phán theo quy định hiện nay sẽ chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Trong trường hợp căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 210 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mà các đương sự có mặt tiến hành thủ tục thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì sự thỏa thuận đó của các đương sự sẽ chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt còn lại. Trong trường hợp thỏa thuận của các đương sự có mặt có ảnh hướng đến quyền, ảnh hưởng đến nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được chủ thể có thẩm quyền đó là thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên tòa đồng ý bằng văn bản.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không có điều khoản quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp các đương sự thay đổi ý kiến theo hướng đạt được một thỏa thuận khác trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành. Vì vậy, các bên hoàn toàn có quyền chấm dứt việc hòa giải vào bất kỳ thời điểm nào mà không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
2. Quy trình tiến hành thủ tục hòa giải vụ án dân sự:
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hướng dẫn cụ thể về trình tự hòa giải quy định tại Điều 210 của Bộ luật tố tụng dân sự như sau:
– Trước khi tiến hành hoạt động hòa giải theo quy định của pháp luật, tức là trước khi tiến hành phiên họp, chủ thể có thẩm quyền đó là thư ký tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền sẽ cần phải tiến hành hoạt động báo cáo cho thẩm phán về sự có mặt hoặc báo cáo về sự vắng mặt của những người tham gia phiên họp hòa giải đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án thông báo trước đó bằng giấy mời;
– Thẩm phán chủ trì phiên họp sẽ tiến hành hoạt động khai mạc phiên hòa giải theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện nay thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải sẽ giới thiệu họ tên của thẩm phán, giới thiệu họ tên của những người tiến hành tố tụng phải giới thiệu họ tên của những người giám định, người phiên dịch, các cơ quan tổ chức trong xã hội có sự tham gia tại phiên hòa giải, các cá nhân có liên quan trong quá trình tham gia phiên hòa giải;
– Thẩm phán chủ trì phiên họp sẽ phổ biến đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong phiên hòa giải, phổ biến về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng khác trong phiên hòa giải đó;
– Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải theo quy định của pháp luật sẽ xác định những tình tiết và xác định những vấn đề mà các bên thống nhất với nhau, xác định những vấn đề mà các bên chưa thống nhất và vẫn đang xảy ra mâu thuẫn tranh chấp, xác định cụ thể và yêu cầu của các đương sự trong quá trình trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ và chưa thống nhất quan điểm;
– Sau đó, nguyên đơn và bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của các đương sự sẽ tiến hành hoạt động phát biểu ý kiến thể hiện quan điểm của mình về quá trình giải quyết vụ án. Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự có thể phát biểu và đóng góp ý kiến cá nhân để bổ sung cho người mà họ bảo vệ quyền lợi;
– Thẩm phán chủ trì phiên họp sẽ hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về vấn đề giải quyết toàn bộ vụ án hoặc giải quyết một lần vụ án hay không, thẩm phán chủ trì phiên hòa giải sẽ xem xét thỏa thuận đó có tự nguyện hay không, có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không, có trái đạo đức xã hội hay không, sau đó thông báo cho các đương sự biết về hậu quả của việc tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Dựa trên cơ sở lời trình bày của các bên, thẩm phán sẽ lập biên bản hòa giải xác định đầy đủ các vấn đề cơ bản mà các bên đã thống nhất với nhau, xác định tất cả những vấn đề mà các bên chưa thống nhất được quan điểm, sau đó yêu cầu đương sự trình bày bổ sung những vấn đề mà đương sự chưa rõ, thẩm phán chưa nắm rõ, chưa thống nhất. Biên bản hòa giải cần phải được lập thành văn bản và có đầy đủ chữ ký của các bên tham gia phiên họp.
3. Những nội dung cần phải hòa giải trong vụ án dân sự:
Nội dung hòa giải vụ án dân sự là các vấn đề của vụ án mà hai bên cần thỏa thuận để giải quyết, cụ thể:
Khi tiến hành hòa giải, thẩm phán phải xác định rõ những vấn đề mà các bên có tranh chấp với nhau để giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau. Hay nói cách khác, các bên có tranh chấp với nhau về những quan hệ pháp luật nào thì Thẩm phán tiến hành giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau giải quyết những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật đó. Trong một vụ án, có thể các bên chỉ tranh chấp về một quan hệ pháp luật nhưng cũng có thể tranh chấp về nhiều quan hệ pháp luật. Chẳng hạn, trong vụ án ly hôn mà các bên có yêu giải quyết tranh chấp về tài sản và giải quyết vấn đề nuôi con thì thẩm phán phải hòa giải giúp đỡ các đương sự trở về chung sống với nhau, nếu các bên vẫn kiên quyết ly hôn tức là hòa giải đoàn tụ không thành thì Thẩm phán hòa giải để các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp về tài sản và giải quyết vấn đề nuôi con. Do nội dung tranh chấp cũng như ý chí của các đương sự trong mỗi vụ án là khác nhau nên nội dung hòa giải cũng khác nhau. Tùy mỗi vụ án mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa cần phải giúp các đương sự thỏa thuận, thương lượng như mức, phương thức bồi thường thiệt hại trong vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phân chia di sản thừa kế, phân chia tài sản chung trong hôn nhân, về việc nuôi con, cấp dưỡng sau khi ly hôn …
Ngoài ra, trong hòa giải thì án phí cũng là một trong những nội dung của hòa giải mà các bên cần thương lượng.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.