Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc triệu tập và lấy lời khai của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bước tố tụng quan trọng nhằm làm rõ sự thật khách quan. Đây là nhóm chủ thể trực tiếp chịu ảnh hưởng từ hành vi phạm tội nên lời khai của họ có giá trị chứng minh cao. Tuy nhiên, trình tự triệu tập và cách thức lấy lời khai phải được thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ và bảo vệ quyền lợi của người tham gia tố tụng.
Mục lục bài viết
1. Quy trình triệu tập, lấy lời khai của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Trước hết, đương sự trong vụ án hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Theo đó, đương sự gồm:
- Nguyên đơn dân sự;
- Bị đơn dân sự;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
Triệu tập, lấy lời khai của bị hại, đương sự (bao gồm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) được quy định tại Điều 188 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
- Việc triệu tập, lấy lời khai của bị hại, đương sự được thực hiện theo quy định tại các điều 185, 186 và 187 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
- Việc lấy lời khai của bị hại, đương sự có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Dẫn chiếu đến Điều 185 và Điều 186 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, việc triệu tập và lấy lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng sẽ tương tự với việc triệu tập người làm chứng. Cụ thể được thực hiện theo quy định sau đây:
1.1. Triệu tập người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bước 1: Điều tra viên lập giấy triệu tập theo đúng quy định.
Điều tra viên phải chuẩn bị giấy triệu tập với đầy đủ các thông tin bắt buộc, bao gồm:
- Họ tên và địa chỉ cư trú hoặc nơi làm việc của người bị hại/người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Thời gian, địa điểm phải có mặt;
- Mục đích buổi làm việc; nội dung cần giải quyết;
- Thời lượng làm việc dự kiến và người họ cần gặp.
Đây là căn cứ pháp lý xác định trách nhiệm có mặt và trách nhiệm giải trình khi vắng mặt không có lý do chính đáng.
Bước 2: Giao giấy triệu tập đúng thủ tục và có ký nhận.
- Giấy triệu tập phải được giao trực tiếp cho người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Trường hợp họ không có mặt hoặc cần giao qua trung gian, Điều tra viên có thể gửi thông qua chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc, học tập.
- Người được giao giấy triệu tập hoặc cơ quan trung gian đều phải ký nhận nhằm xác định rằng giấy triệu tập đã được giao đúng quy định. Chính quyền địa phương hoặc cơ quan nơi người được triệu tập làm việc có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để họ thực hiện nghĩa vụ tố tụng.
Bước 3: Trường hợp người được triệu tập dưới 18 tuổi.
- Khi người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa đủ 18 tuổi, giấy triệu tập phải được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
- Đây là yêu cầu bắt buộc nhằm bảo đảm quyền lợi của người chưa thành niên và đảm bảo sự giám sát, hỗ trợ khi họ tham gia tố tụng.
Bước 4: Thực hiện việc triệu tập theo ủy thác tư pháp (nếu có).
- Nếu người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cư trú ở nước ngoài và việc triệu tập cần thực hiện thông qua ủy thác tư pháp thì việc giao giấy triệu tập phải tuân theo quy định tại điều luật này đồng thời tuân thủ Luật Tương trợ tư pháp.
- Cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng thủ tục ngoại giao, đúng nghi thức và đúng kênh ủy thác được pháp luật quy định.
Bước 5: Kiểm sát viên có quyền tự triệu tập khi cần thiết.
- Trong trường hợp xét thấy cần thiết để bảo đảm khách quan trong việc thu thập chứng cứ, Kiểm sát viên có quyền trực tiếp triệu tập người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để lấy lời khai.
- Khi đó, việc triệu tập cũng phải tuân theo đúng trình tự giao giấy triệu tập như Điều tra viên: Lập giấy triệu tập đầy đủ, giao đúng thủ tục và có ký nhận.
Bước 6: Người bị triệu tập có trách nhiệm có mặt đúng thời gian, địa điểm.
- Khi đã nhận giấy triệu tập hợp lệ, người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt đúng thời gian ghi trên giấy, trừ trường hợp có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
- Nếu cố tình không có mặt, họ có thể bị áp dụng các biện pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nhằm bảo đảm việc điều tra diễn ra đúng tiến độ.
1.2. Lấy lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bước 1: Xác định địa điểm phù hợp để lấy lời khai.
- Việc lấy lời khai có thể được thực hiện tại trụ sở cơ quan điều tra, hoặc tại nơi cư trú, nơi làm việc, nơi học tập của người bị hại/người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Điều tra viên lựa chọn địa điểm tùy theo tính chất vụ án, điều kiện di chuyển và yếu tố thuận tiện nhằm bảo đảm việc lấy lời khai diễn ra khách quan và không gây khó khăn cho người được lấy lời khai.
Bước 2: Bảo đảm lấy lời khai riêng từng người, không để trao đổi thông tin.
- Nếu vụ án có nhiều người bị hại hoặc nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, việc lấy lời khai phải được thực hiện tách biệt từng người, tuyệt đối không để họ tiếp xúc hay trao đổi thông tin với nhau trong thời gian lấy lời khai.
- Quy định này nhằm tránh việc ảnh hưởng lời khai, thống nhất lời khai hoặc làm sai lệch thông tin về vụ án.
Bước 3: Giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ trước khi lấy lời khai.
- Trước khi bắt đầu, Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra phải giải thích cho người được lấy lời khai biết đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ, theo đúng Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Việc giải thích này là bắt buộc và phải ghi rõ vào biên bản để đảm bảo tính hợp pháp.
Bước 4: Làm rõ nhân thân và quan hệ trước khi hỏi nội dung vụ án.
- Trước khi hỏi về diễn biến vụ án, Điều tra viên phải hỏi rõ về quan hệ giữa người được lấy lời khai với bị can, bị hại, bị cáo hoặc các bên liên quan. Đồng thời, cần ghi nhận các thông tin nhân thân cơ bản như nghề nghiệp, tuổi, trình độ học vấn… Những yếu tố này giúp đánh giá tính khách quan của lời khai.
- Sau đó, Điều tra viên yêu cầu người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày bằng lời hoặc tự viết bản tự khai, bảo đảm sự tự nguyện và trung thực, rồi mới tiến hành đặt câu hỏi làm rõ.
Bước 5: Kiểm sát viên có quyền trực tiếp lấy lời khai khi cần thiết.
- Trong các trường hợp đặc biệt như lời khai có dấu hiệu không khách quan, có vi phạm tố tụng, hoặc cần làm rõ chứng cứ để Viện kiểm sát quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên có quyền trực tiếp lấy lời khai người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Khi Kiểm sát viên tiến hành lấy lời khai, quy trình cũng phải tuân thủ đầy đủ các bước trên theo đúng quy định pháp luật.
Bước 6: Ghi biên bản lời khai đầy đủ, chính xác và có chữ ký xác nhận.
- Mọi nội dung đã hỏi đã trả lời cùng các quyền và nghĩa vụ đã được giải thích phải được ghi rõ ràng vào biên bản.
- Người được lấy lời khai phải đọc lại biên bản, đề nghị chỉnh sửa nếu có điểm chưa chính xác và ký xác nhận vào từng trang. Điều này bảo đảm lời khai được thu thập hợp pháp và là chứng cứ hợp lệ phục vụ quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Biên bản ghi lời khai được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Việc lấy lời khai của bị hại, đương sự có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
2. Triệu tập, lấy lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục:
Khoản 5 Điều 423 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định: Đối với vụ án có bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi, Hội đồng xét xử phải hạn chế việc tiếp xúc giữa bị hại, người làm chứng với bị cáo khi bị hại, người làm chứng trình bày lời khai tại phiên tòa. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hỏi bị hại, người làm chứng.
Điều 22 Thông tư liên tịch 01/2022/TTT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH quy định:
- Trường hợp Viện kiểm sát đề nghị triệu tập bị hại đến phiên tòa thì Tòa án xem xét quyết định việc triệu tập đến phiên tòa. Nếu buộc phải triệu tập bị hại có mặt tại phiên tòa thì bố trí phòng xử án phù hợp hoặc phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo tại phiên tòa; xem xét, đề nghị bác sĩ, chuyên gia tâm lý hỗ trợ bị hại, áp dụng các biện pháp bảo vệ bị hại tại phiên tòa;
- Trường hợp Viện kiểm sát cần đề nghị nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoặc công khai một số tài liệu, chứng cứ bằng dữ liệu điện tử tại phiên tòa trong vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi thì phải trao đổi với Tòa án để bố trí phương tiện, kỹ thuật phục vụ tại phiên tòa phù hợp với điều kiện thực tế của Tòa án.
Tiếp tục căn cứ theo khoản 3 Điều 7 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP, khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, căn cứ vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, Tòa án cần thực hiện:
- Hạn chế triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa nếu vẫn giải quyết được vụ án bằng việc áp dụng các biện pháp thay thế khác (ví dụ: sử dụng lời khai của họ ở giai đoạn điều tra, truy tố; mời họ đến Tòa án hoặc địa điểm hợp pháp khác để lấy lời khai trước bằng văn bản, bằng ghi âm, ghi hình có âm thanh…).
- Trường hợp phải triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa, Tòa án cần tạo điều kiện để họ làm quen, tiếp xúc với môi trường Tòa án, với quy trình và thủ tục xét xử; bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử (ví dụ: micro, loa, ti vi, camera…) để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của họ khi họ khai báo, tham gia tố tụng tại phiên tòa; trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo và khoảng cách giữa Hội đồng xét xử với người bị hại là người dưới 18 tuổi không quá 03 mét.
Như vậy: Trong các vụ án xâm hại tình dục mà bị hại là người dưới 18 tuổi, Tòa án phải ưu tiên bảo vệ tối đa quyền lợi và sự an toàn tâm lý của các em, do đó việc triệu tập đến phiên tòa cần được hạn chế ở mức thấp nhất. Trường hợp Kiểm sát viên đề nghị triệu tập, Tòa án phải xem xét thận trọng trên cơ sở hồ sơ vụ án, từ đó quyết định có cần thiết hay không. Quy định pháp luật cũng nhấn mạnh rằng Tòa án sẽ không triệu tập nếu có thể giải quyết vụ án bằng các biện pháp khác (như sử dụng lời khai đã được thu thập hợp lệ trong hồ sơ hoặc mời bị hại đến Tòa án để lấy lời khai trước bằng văn bản). Đây là cách thức nhằm đảm bảo việc xét xử vẫn khách quan, đầy đủ chứng cứ mà không gây tổn thương tâm lý thêm cho người chưa thành niên.
3. Việc lấy lời khai người bị hại dưới 18 tuổi được thực hiện như thế nào?
Khoản 1 Điều 14 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định về việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi như sau:
- Việc lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng dưới 18 tuổi có thể thực hiện tại nơi học tập, lao động và sinh hoạt của người đó hoặc nơi tiến hành điều tra. Việc hỏi cung bị can dưới 18 tuổi có thể thực hiện tại nơi cư trú của người đó hoặc nơi tiến hành điều tra.
- Trường hợp lấy lời khai, hỏi cung tại nơi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử thì phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời khai, hỏi cung bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý người dưới 18 tuổi.
- Trường hợp lấy lời khai người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì phải ưu tiên địa điểm lấy lời khai tại nơi cư trú của người đó; nếu không có nơi cư trú thì phải tiến hành tại cơ sở chăm sóc trẻ em theo quy định của pháp luật.
Theo đó, việc lấy lời khai đối với người bị hại dưới 18 tuổi có thể được thực hiện tại một trong 02 địa điểm sau:
- Nơi học tập, lao động, sinh hoạt của họ;
- Hoặc nơi cơ quan tiến hành điều tra làm việc.
Trường hợp lời khai được lấy tại trụ sở cơ quan điều tra, truy tố hoặc xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng phải bố trí phòng hỏi cung, phòng lấy lời khai theo mô hình thân thiện, phù hợp với đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên nhằm bảo đảm sự an toàn và hạn chế tối đa tác động tiêu cực về mặt tinh thần.
Đối với trường hợp người bị hại dưới 18 tuổi là nạn nhân của các hành vi xâm hại tình dục, bạo hành hoặc mua bán người, pháp luật yêu cầu phải ưu tiên lấy lời khai tại nơi cư trú của các em – nơi mà các em cảm thấy an toàn và ít bị căng thẳng nhất. Nếu người bị hại không có nơi cư trú ổn định, việc lấy lời khai phải được thực hiện tại cơ sở chăm sóc trẻ em theo đúng quy định pháp luật, bảo đảm mọi điều kiện bảo vệ cần thiết cho trẻ.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


